Cần một 'đột phá' thể chế về vùng
TS. Nguyễn Quốc Việt - chuyên gia chính sách công, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, bên cạnh cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) về các mô hình kinh doanh mới gắn với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tăng trưởng xanh, thì sandbox về quản trị địa phương, nhất là sandbox về kết nối vùng, cần được đặt lên hàng ưu tiên.
PV: Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đặt mục tiêu phát triển các “vùng động lực, cực tăng trưởng mới”. Ông nghĩ sao về cách tiếp cận các vùng động lực, cực tăng trưởng mới này?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV đưa ra định hướng rất rõ về phát triển các vùng động lực và cực tăng trưởng mới, với tư duy mở và hiện đại hơn so với trước đây. Trước hết, dự thảo xác định cần hình thành hệ thống vùng động lực quốc gia có vai trò dẫn dắt và lan tỏa, dựa trên lợi thế về vị trí địa kinh tế, hạ tầng, công nghiệp – dịch vụ, đổi mới sáng tạo và chất lượng nhân lực. Cùng với các vùng hiện hữu như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh hay Đà Nẵng, dự thảo cũng nhấn mạnh việc tạo ra các cực tăng trưởng mới, gắn với các đô thị lớn đang nổi, các trung tâm công nghiệp - logistics - công nghệ cao, các hành lang kinh tế chiến lược và những địa bàn có đột phá về hạ tầng.

Cần Thơ đang hướng đến trở thành trung tâm logistics của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ảnh tư liệu
Điểm rất mới trong dự thảo là cách tiếp cận vùng theo không gian kinh tế thay vì theo ranh giới hành chính. Văn kiện nhấn mạnh phải tăng cường liên kết vùng một cách thực chất, thông qua hạ tầng giao thông liên vùng, chia sẻ dữ liệu, điều phối chính sách và thúc đẩy hợp tác giữa các địa phương theo chuỗi giá trị. Đồng thời, cần hoàn thiện thể chế điều phối vùng với thẩm quyền đủ mạnh để xử lý các vấn đề liên tỉnh mà từng địa phương riêng lẻ không thể giải quyết.
Về định hướng phát triển, mỗi vùng động lực sẽ được giao các trụ cột khác nhau như công nghiệp công nghệ cao, năng lượng sạch, kinh tế biển, logistics, du lịch - văn hóa hoặc tài chính - công nghệ số. Cách phân vai này giúp tận dụng lợi thế riêng từng vùng, tránh dàn trải nguồn lực và tạo ra hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ hơn.
Dự thảo đề cập rõ yêu cầu ưu tiên nguồn lực cho hạ tầng liên vùng, cơ chế đặc thù cho vùng và các cực tăng trưởng, cũng như chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao và doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Mục tiêu là tạo ra không gian phát triển cân bằng, hiệu quả, đủ sức đóng góp vào mục tiêu đến 2030 Việt Nam trở thành nước thu nhập trung bình cao và đến 2045 trở thành nước phát triển.
PV: Theo ông cần thay đổi cách tiếp cận vùng kinh tế trọng điểm như thế nào để khơi dậy được nguồn lực phát triển cân bằng và hiệu quả hơn?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách thể chế, tháo gỡ các điểm nghẽn phát triển, trong đó trọng tâm là xây dựng một Chính phủ liêm chính, hiện đại, minh bạch và tiến hành cải cách chính quyền địa phương. Một mặt, chúng ta sáp nhập một số đơn vị hành chính để tạo ra không gian phát triển mới và lợi thế quy mô; mặt khác, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho cơ sở và địa phương.
Tuy nhiên, để khơi thông các nguồn lực phát triển cho cả vùng kinh tế động lực, phân cấp - phân quyền cho địa phương phải đi đôi với cơ chế kiểm soát quyền lực chặt chẽ, điều đã được nhấn mạnh trong Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng. Chính phủ liêm chính, hiện đại nghĩa là địa phương phải được trao quyền, được tự chủ và tự chịu trách nhiệm, nhưng đồng thời phải nâng cao trách nhiệm giải trình, ngăn chặn nguy cơ lạm quyền, “cát cứ” quyền lực hay “địa phương chủ nghĩa”. Sự hài hòa giữa trao quyền và kiểm soát quyền lực, cùng việc phòng chống tham nhũng và lạm quyền, là yếu tố mang tính quyết định.

TS Nguyễn Quốc Việt
Hiện nay, chúng ta đang rà soát lại các quy hoạch và kế hoạch phát triển của từng địa phương, đồng thời tái cấu trúc các cơ chế và thể chế điều phối vùng. Đây chắc chắn sẽ là nội dung quan trọng được thảo luận tại Đại hội Đảng lần thứ XIV tới, bởi việc thay đổi cách tiếp cận quản lý địa phương cần dựa trên tư duy mới: phải tạo ra không gian tăng trưởng liên vùng, phải tổ chức lại các động lực phát triển và sắp xếp nguồn lực dựa trên lợi thế so sánh chung của cả vùng, thay vì tư duy cục bộ. Chỉ khi nhìn nhận lợi thế của từng địa phương trong tổng thể vùng, chúng ta mới tránh được cạnh tranh không lành mạnh hay tình trạng các địa phương cùng chạy theo những mục tiêu phát triển giống nhau.
Để làm được điều đó, Việt Nam cần một thể chế đột phá về vùng so với giai đoạn trước đây.
PV: Để thúc đẩy phát triển liên kết vùng trong giai đoạn mới, đặc biệt trong bối cảnh Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIV đề cập đến mô hình sandbox về thể chế, Việt Nam cần tập trung vào những cơ chế đột phá và hạ tầng nào để phát huy các động lực vùng, thưa ông?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Dự thảo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIV đã đề cập đến việc hình thành các sandbox về thể chế. Bên cạnh sandbox dành cho các mô hình kinh doanh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số hay tăng trưởng xanh, thì sandbox về quản trị địa phương và đặc biệt là sandbox về kết nối vùng sẽ là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những nghị quyết thí điểm mang tính đặc thù cho các vùng kinh tế động lực như TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh hay Bà Rịa - Vũng Tàu. Các thí điểm này ưu tiên mạnh mẽ cho kết nối hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông liên vùng, nhằm chia sẻ các cơ sở dùng chung và khai thác tối đa lợi thế của từng khu vực.
Một ví dụ tiêu biểu có thể học hỏi là mô hình kết nối vùng kinh tế vịnh lớn Hong Kong – Macau - Quảng Đông của Trung Quốc thông qua hệ thống cầu – hầm vượt biển. Tại Việt Nam, ý tưởng xây dựng cầu vượt biển kết nối Bà Rịa - Vũng Tàu với Cần Giờ cũng nhằm mục tiêu tương tự: rút ngắn thời gian và chi phí logistics, đồng thời liên kết lợi thế của Bà Rịa - Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh và cả vùng Tây Nam Bộ. Đây sẽ là động lực quan trọng cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Ở phía Bắc, bài học về việc hoàn thiện kết nối giao thông giữa Hải Phòng và Quảng Ninh cho thấy hiệu quả rõ rệt. Nhờ hạ tầng đồng bộ, các địa phương có thể chia sẻ lợi thế về du lịch (như quần thể Hạ Long - Cát Bà) và mở ra các hành lang phát triển mới dọc theo trục đường bộ - đường sắt từ Hà Nội đến Hải Phòng và Quảng Ninh. Không chỉ hình thành các cụm công nghiệp, mà cả các cụm dịch vụ và đô thị mới cũng xuất hiện dọc theo các tuyến kết nối này.
Như vậy, phát triển hạ tầng liên vùng không chỉ giới hạn ở giao thông, mà còn mở rộng sang hạ tầng năng lượng, hạ tầng nhân lực, hạ tầng dịch vụ và hạ tầng số. Trên nền tảng đó, cần có các chính sách phân bổ nguồn lực hợp lý, xây dựng quỹ phát triển vùng, thúc đẩy hợp tác công - tư, và phối hợp trong công tác bảo vệ môi trường.
Điều này phù hợp với định hướng cân bằng ba trụ cột: kinh tế - xã hội - môi trường theo Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIV. Với việc Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu, việc phát triển kinh tế phải song hành với bảo vệ môi trường, giảm thiểu rủi ro thiên tai. Do đó, cơ chế vùng và khai thác hiệu quả các nguồn lực phát triển vùng là yêu cầu mang tính quyết định để phát triển bền vững trong giai đoạn tới.
PV: Xin cảm ơn ông!
“Mặc dù Việt Nam đã hình thành các vùng kinh tế trọng điểm từ nhiều năm trước, nhưng liên kết vùng vẫn chưa hiệu quả do nhiều nguyên nhân mang tính thể chế và thực thi… Cải cách thể chế không chỉ nhằm đảm bảo an toàn, mà phải hướng tới tạo động lực phát triển nhanh và bền vững” - TS. Nguyễn Quốc Việt nhấn mạnh.












