Cần quy định rõ về thời hạn tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại
Đó là ý kiến của Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn trong phiên thảo luận tại hội trường Quốc hội, chiều 5/12.

Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn phát biểu trong phiên thảo luận tại hội trường Quốc hội, chiều 5/12.
Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, chiều 5/12 các đại biểu Quốc hội thảo luận tại hội trường, cho ý kiến vào dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 3 luật: Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại và Luật Tố cáo.
Phó trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh Trần Văn Tuấn cho biết: Tại khoản 4, Điều 2 của dự thảo Luật đã bổ sung Điều 11a vào sau Điều 11 của Luật Khiếu nại năm 2011 quy định về: “Tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết khiếu nại”. Theo đó, có trường hợp tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại: “Do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan” (được quy định tại điểm a).
Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, bổ sung quy định cụ thể ngay trong Luật này hoặc giao cho Chính phủ quy định cụ thể các trường hợp tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại do “sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan” là như thế nào? Đồng thời cần bổ sung quy định cụ thể về thời hạn tạm đình chỉ tối đa.
Qua nghiên cứu cho thấy, theo quy định tại Điều 156 của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan, không thể lường trước được và không thể khắc phục được, mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” và “Trở ngại khách quan là trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”. Đây là quy định chung, trên cơ sở đó các luật chuyên ngành tiếp tục quy định về trường hợp bất khả kháng cho phù hợp với phạm vi, đối tượng điều chỉnh của luật, hoặc viện dẫn đến quy định của Bộ luật Dân sự.
Vì vậy, trong Luật này cũng cần quy định rõ thế nào là “sự kiện bất khả kháng hay trở ngại khách quan” trong giải quyết khiếu nại; đồng thời cần bổ sung quy định cụ thể về thời hạn tạm đình chỉ tối đa nhằm tránh việc lạm dụng tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại. (Nếu không quy định rõ có thể dẫn đến việc tạm đình chỉ giải quyết khiếu nại trong trường hợp mới chỉ là có một số khó khăn nhất định, chưa đến mức được xác định là trường hợp bất khả kháng hay trở ngại khách quan). Hậu quả của việc lạm dụng này là vụ việc khiếu nại không được giải quyết hoặc kéo dài, đùn đẩy, né tránh giải quyết, gây bất lợi, bức xúc cho công dân.
Tại khoản 7, Điều 2 của dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung Điều 17 của Luật Khiếu nại năm 2011 về “Thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã,…” Theo đó, Chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với các quyết định hành chính do mình ban hành. Tuy nhiên, theo luật hiện hành cũng như trong dự thảo Luật này đều chưa quy định đầy đủ về thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính do cơ quan, tổ chức ban hành, trong đó có UBND cấp mình. (Thực tế hiện nay dù không có quy định thì Chủ tịch UBND các cấp vẫn đang không chỉ giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình mà còn phải giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính của UBND cấp mình).
Vì vậy, để có đầy đủ cơ sở pháp lý trong thực hiện, đại biểu đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 17 về thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp xã trong giải quyết khiếu nại lần đầu như sau: “Chủ tịch UBND cấp xã có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của UBND cấp xã, của người đứng đầu cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc UBND cấp xã, của công chức, viên chức do mình quản lý trực tiếp”.
Tương tự, đại biểu cũng đề nghị Ban Soạn thảo nghiên cứu sửa đổi khoản 1, Điều 21 của Luật Khiếu nại năm 2011, quy định về thẩm quyền của Chủ tịch UBND cấp tỉnh trong giải quyết khiếu nại lần đầu. Trong đó, cần quy định rõ Chủ tịch UBND cấp tỉnh có thẩm quyền “Giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của UBND cấp tỉnh”.












