Cần sớm có chính sách pháp luật khả thi, hiệu quả hơn trong bảo vệ môi trường

Tại Tọa đàm 'Quản lý và giảm thiểu rác thải nhựa' do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức ngày 6/12, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, thành viên Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường Quàng Văn Hương cho rằng, vấn đề về rác thải nhựa đang đặt ra cho toàn cầu nói chung và Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, do đó cần phải sớm có chính sách pháp luật khả thi, hiệu quả hơn.

Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, thành viên Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường Quàng Văn Hương phát biểu tại tọa đàm. Ảnh: Mạnh Hưng

Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, thành viên Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường Quàng Văn Hương phát biểu tại tọa đàm. Ảnh: Mạnh Hưng

Luật đã tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác quản lý rác thải nhựa

Theo Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc, thành viên Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường Quàng Văn Hương, liên quan đến hành lang pháp lý trong quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 về công tác quản lý rác thải nhựa, tại Điều 73 có 7 khoản quy định trách nhiệm của Chính phủ với các địa phương đến các hộ gia đình cá nhân.

Trong đó, Khoản 1 quy định trách nhiệm về hạn chế sử dụng, giảm thiểu, phân loại, thải bỏ chất thải là sản phẩm nhựa sử dụng một lần và bao bì nhựa khó phân hủy sinh học theo quy định; Khoản 2 là quản lý chất thải nhựa phát sinh từ hoạt động du lịch và dịch vụ biển; Khoản 3 là quy định các sản phẩm thân thiện môi trường, sản phẩm thay thế sản phẩm nhựa sử dụng một lần và sản phẩm thay thế bao bì nhựa khó phân hủy sinh học được chứng nhận thì được hưởng ưu đãi, hỗ trợ; Khoản 4 là quy định chất thải nhựa phải được thu gom, phân loại để tái sử dụng, tái chế hoặc xử lý theo quy định của pháp luật; Khoản 5 là chính sách khuyến khích của nhà nước đối với chế chất thải nhựa; Khoản 6 là chính sách trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh về thu gom, xử lý chất thải nhựa, Khoản 7 là trách nhiệm của Chính phủ trong việc quy định.

Trên cơ sở này, Điều 58 cũng quy định tại điểm b, khoản 2 về nghĩa vụ hạn chế rác thải nhựa trong lĩnh vực du lịch văn hóa thể thao. Bởi trên thực tế, sau các sự kiện hoạt động du lịch văn hóa thể thao, tình trạng vứt các rác thải nhựa nhiều hơn. Đồng thời, điểm b, khoản 2 cũng quy định về thực hiện quy định và khuyến khích về tái sử dụng tài chính rác thải nhựa trong hoạt động văn hóa thể thao.

Đối với Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/1/2022 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường, trong Điều 3, khoản 13,14,15 giải thích rất rõ các từ trong luật quy định như nhựa trong sản phẩm hàng hóa, sản phẩm nhựa sử dụng một lần, bao bì nhựa khó phân hủy sinh học. Đồng thời, khoản 10 cũng giải thích thêm về chất thải rắn thông thường, trong đó bao gồm cả rác thải nhựa.

Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quàng Văn Hương cho biết, trên đây là hai văn bản chính và những điều luật chính. Từ đó, thấy có 2 điểm lưu ý, trước hết về tổng thể thì luật đã sửa đổi rất nhiều các nội dung của Luật năm 2014, trong đó đã cụ thể hóa rất nhiều chủ trương của Đảng, cũng như phù hợp thực tiễn trong đó có vấn đề về rác thải nhựa. Đặc biệt, chỉ sau 6 năm (từ 2014 – 2020) cho thấy sự cấp thiết phải sửa luật và dự kiến trong nhiệm kỳ tới, Chính phủ sẽ tiếp tục trình Quốc hội để sửa luật về môi trường.

Đồng thời, Điều 73 quy định rõ tất cả các loại liên quan như phân loại về trách nhiệm, chế độ chính sách ưu đãi. Đây là điều hoàn toàn mới so với Luật năm 2014 cho thấy, vấn đề về rác thải nhựa đang đặt ra cho toàn cầu nói chung và Việt Nam - quốc gia đang phát triển. Do đó chúng ta phải sớm có chính sách pháp luật khả thi hiệu quả hơn.

Các đại biểu tham dự Tọa đàm “Quản lý và giảm thiểu rác thải nhựa”. Ảnh: Mạnh Hưng

Các đại biểu tham dự Tọa đàm “Quản lý và giảm thiểu rác thải nhựa”. Ảnh: Mạnh Hưng

Một số địa phương còn lúng túng, chưa đồng bộ, thống nhất được trong hệ thống pháp luật

Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quàng Văn Hương cho biết, với các văn bản đã ban hành đã đủ “khung”, có nghĩa ở tầm luật và văn bản hướng dẫn thi hành luật đã đủ khung pháp lý để thực hiện được. Tuy nhiên, việc hướng dẫn quy định chi tiết của các địa phương cũng còn có hạn chế. Hiện nay nhiều địa phương chưa ban hành được các văn bản để cụ thể hóa, dẫn đến việc thực hiện ở một số địa phương còn lúng túng, chưa đồng bộ thống nhất được trong hệ thống pháp luật.

Thực tế, khi Đoàn giám sát cùng Bộ Tư pháp khảo sát ở địa phương, địa phương có giải thích vì không quy định chi tiết, cụ thể thời gian ban hành thế nên địa phương cũng không ban hành. Cho nên, tôi cho rằng cần gắn với trách nhiệm, mặc dù luật không quy định thời gian ban hành nhưng khi đến một mức độ nào đó thì bắt buộc phải ban hành. Đây cũng là điều Đoàn giám sát đã chỉ ra.

Ngoài ra, trong Báo cáo về kết quả thực hiện của Đoàn giám sát cũng đã chỉ ra rất nhiều về hạn chế. Trong đó, liên quan đến quản lý chất thải rắn sinh hoạt có các vấn đề về phân loại, quản lý như phân loại cũng mới dừng ở mức thí điểm, chưa có biện pháp triển khai tích cực; đầu tư hạ tầng để thu gom còn hạn chế, xử lý cũng chưa đồng bộ, công nghệ xử lý chưa tiên tiến; các dự án triển khai vẫn còn ít vốn nên triển khai chưa đồng bộ.

Về lĩnh vực nông nghiệp, có thể thấy tình trạng bao bì sau sử dụng không được thu gom dẫn đến khi mưa lũ sẽ dồn về các ao hồ, gây ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, lạm dụng quá mức phân bón hóa học và thuốc bảo vệ thực vật làm phát sinh các bao bì của nhựa cũng dẫn đến ô nhiễm. Riêng 2024, lượng phát sinh chất thải nhựa lớn nhất lại chính là chăn nuôi.

Thêm nữa ngoài xử lý những chất thải nguy hại, còn có rác thải trong y tế, nhất ở vùng sâu vùng xa là những hành vi, thói quen đơn giản dùng xong sẽ xả rác ra môi trường.

Theo Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quàng Văn Hương, về đánh giá nguyên nhân, Báo cáo chỉ rất rõ bao gồm: Thứ nhất, ý thức của cấp ủy Đảng, của chính quyền, của người dân và kể cả doanh nghiệp là những đơn vị sản xuất. Thứ hai, công tác tổ chức thu gom còn rất hạn chế. Thứ ba, tình trạng lạm dụng, chạy theo kinh tế phát triển kinh tế mà quên bảo vệ môi trường. Thứ tư, nhiều địa phương, nhất là các tỉnh miền núi khó khăn xây dựng các trạm quan trắc nên chỉ xử lý ở mức độ sơ bộ mà chưa được theo yêu cầu giữa mục tiêu đặt ra bởi nguồn lực có hạn.

“Đây là những hạn chế, nguyên nhân cần phải tập trung phân tích, có những giải pháp khắc phục nếu không muốn tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến”, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quàng Văn Hương nhấn mạnh.

Xuân Quý

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/can-som-co-chinh-sach-phap-luat-kha-thi-hieu-qua-hon-trong-bao-ve-moi-truong-10399505.html