Cần tập trung đào tạo tiến sĩ tại CSGDĐH định hướng nghiên cứu, tránh dàn trải
Lãnh đạo CSGDĐH cho rằng, cần xây dựng những chính sách về học bổng, chương trình đào tạo và sử dụng ngân sách hỗ trợ hiệu quả để nâng cao chất lượng đào tạo TS.
Theo chia sẻ của lãnh đạo nhiều cơ sở giáo dục đại học, đào tạo tiến sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, góp phần nâng cao năng lực nghiên cứu và thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Tuy nhiên, quá trình này vẫn còn gặp nhiều khó khăn đối với cả người học và cơ sở đào tạo.
Nhiều điểm cần gỡ khó trong đào tạo tiến sĩ
Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Thạc sĩ Trần Minh Thùy Dương - Giảng viên Trường Đại học Lạc Hồng, hiện đang học tiến sĩ theo Đề án 89 (Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019 - 2030) ngành Văn hóa học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Tôi học chương trình đào tạo tiến sĩ từ năm 2023 theo diện Đề án 89. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, tôi chưa nhận được hỗ trợ kinh phi từ đề án này do còn gặp khó khăn trong các thủ tục và giấy tờ liên quan. Vì vậy, tôi phải chi trả gần như hoàn toàn học phí theo học chương trình tiến sĩ hiện tại của mình”.
Theo cô Trần Minh Thùy Dương, Trường Đại học Lạc Hồng đã có những chính sách hỗ trợ học phí cho giảng viên đăng ký học nghiên cứu sinh theo Đề án 89. Trong đó, nhà trường hỗ trợ 120 triệu đồng cho mỗi giảng viên trong toàn khóa học tiến sĩ, chia thành ba đợt gồm: khi người học có giấy báo nhập học, khi người học tiến hành bảo vệ luận án tiến sĩ và khi người học nhận bằng tiến sĩ, với mức hỗ trợ cho mỗi đợt là 40 triệu đồng.
Tuy nhiên, do học phí chương trình đào tạo tiến sĩ cô đang theo học tăng từ 10 đến 15% mỗi năm,với mức học phí dự kiến hơn 200 triệu đồng toàn khóa học, khiến việc đảm bảo tài chính để theo đuổi chương trình học của cô còn khó khăn. Điều này ảnh hưởng đến quá trình học tập, nghiên cứu, bởi bên cạnh việc học, cô vẫn phải duy trì công việc giảng dạy tại trường để chi trả học phí đào tạo tiến sĩ. Việc phải chia sẻ thời gian cho nhiều nhiệm vụ khác nhau khiến cô không thể dành toàn bộ tâm huyết vào nghiên cứu, từ đó ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng nghiên cứu tại chương trình đào tạo tiến sĩ đang theo học.
Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nghiên cứu sinh trong quá trình học tập và nghiên cứu, cô Dương kỳ vọng rằng, trong tương lai, các thủ tục hành chính liên quan đến đào tạo tiến sĩ sẽ được gỡ khó và cải thiện.
“Việc đơn giản hóa quy trình, thủ tục hỗ trợ và nâng cao tính liên kết giữa các cơ quan quản lý không chỉ giúp nghiên cứu sinh có nhiều thuận lợi hơn về thời gian, chi phí, mà còn tạo điều kiện để họ tập trung toàn tâm vào nghiên cứu, qua đó nâng cao hiệu quả và chất lượng đào tạo”, cô Dương bày tỏ.
Dưới góc nhìn của cơ sở đào tạo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Đức Lung - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cho biết, mặc dù công tác đào tạo tiến sĩ của trường đang có những chuyển biến tích cực, cả về số lượng đầu vào lẫn tỷ lệ tốt nghiệp đúng hạn, nhưng vẫn còn đó những khó khăn đối với nghiên cứu sinh tại nhà trường.
“Trước năm 2023, mỗi năm nhà trường chỉ có dưới 5 nghiên cứu sinh nhập học trên khoảng 8 chỉ tiêu tuyển sinh, nhưng đến năm 2024, lần đầu tiên số lượng nghiên cứu sinh trúng tuyển nhập học của nhà trường đạt đủ chỉ tiêu là 15/15 nghiên cứu sinh. Mặc dù tỷ lệ tốt nghiệp tiến sĩ đúng hạn đã được cải thiện, nhưng vẫn còn thấp do yêu cầu của hội đồng bảo vệ luận án tại trường cao hơn so với quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu sinh mong muốn công bố các bài báo khoa học chất lượng cao thuộc danh mục SCIE để được miễn phản biện kín, dẫn đến thời gian bảo vệ luận án kéo dài hơn dự kiến”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Đức Lung chia sẻ.
Theo thầy Lung, nhà trường hiện có 3 giảng viên được cử đi đào tạo trình độ tiến sĩ theo Đề án 89, trong đó có 2 giảng viên đi đào tạo tại Anh và 1 giảng viên được đào tạo tại Pháp. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi nhận được từ việc tham gia Đề án số 89, nghiên cứu sinh cũng gặp không ít những khó khăn do còn nhiều bất cập. Điều này cũng dẫn tới việc không thu hút được nhiều giảng viên, nghiên cứu viên tham gia đề án.
“Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh có nhiều giảng viên, nghiên cứu viên đủ điều kiện, tiêu chuẩn tham gia Đề án 89 nhưng không mặn mà với việc tham gia đề án. Vì vậy, nhà trường đã tổ chức một cuộc khảo sát để tìm hiểu nguyên nhân. Qua khảo sát, có tới 40,8% số người cho rằng thủ tục tham gia đề án rườm rà, phức tạp; 39,4% cho rằng chi phí đào tạo cấp cho người học không cao nhưng cam kết, ràng buộc lại quá nhiều; 23,9% cho rằng thời gian đăng ký tham gia đề án và cấp kinh phí lâu; 22,5% cho rằng học bổng do các cơ sở đào tạo ở nước ngoài cấp cao hơn mà không có sự ràng buộc nên họ sẽ không chọn tham gia đề án bằng ngân sách nhà nước; 16,9% cho rằng tiêu chí xét chọn cơ sở đào tạo ở trong nước hay ở nước ngoài khó thực hiện; 14,1% cho rằng cơ quan chức năng chậm giải ngân chi phí đào tạo cho người học…”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Đức Lung thông tin.
Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cũng cho biết thêm, nhà trường đang có kế hoạch phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ dựa trên nguồn nhân lực hiện có, nhằm đảm bảo tỷ lệ giảng viên có trình độ tiến sĩ không thấp hơn 40% và từ năm 2030 không thấp hơn 50% theo chuẩn cơ sở giáo dục đại học năm 2024 mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra (quy định tại Thông tư số 01/2024/TT-BGDĐT).
Theo đó, nhà trường đã có một số chính sách hỗ trợ người tham gia đào tạo tiến sĩ như: giảm khối lượng giảng dạy và nghiên cứu khoa học, hỗ trợ các loại học bổng và học phí, ưu tiên cấp kinh phí thực hiện đề tài khoa học công nghệ cấp cơ sở và đăng ký đề tài cấp Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, chính sách hỗ trợ đăng bài báo quốc tế uy tín…Đặc biệt, nhà trường đang nghiên cứu thêm các chính sách để thúc đẩy nhân sự của trường tham gia đào tạo, nâng cao trình độ, đặc biệt là trình độ tiến sĩ và sẽ ban hành trong thời gian tới.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Đức Lung - Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website trường.
Trong khi đó, theo Tiến sĩ Hà Thúc Viên - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Đức cho hay, hiện nay, nhà trường đã tuyển sinh được 10 nghiên cứu sinh trúng tuyển nhập học tại hai ngành: Phát triển đô thị bền vững và Khoa học máy tính. Tuy nhiên, số lượng ứng viên nộp hồ sơ và trúng tuyển đào tạo tiến sĩ của nhà trường vẫn thấp hơn so với chỉ tiêu đề ra. Đặc biệt, một số ngành vẫn chưa có nghiên cứu sinh theo học.
Lý giải về nguyên nhân tỷ lệ nghiên cứu sinh tại nhà trường còn thấp, thầy Viên chia sẻ: “Hiện nay, điều kiện tuyển sinh và tốt nghiệp tại nhà trường được đặt ra rất cao. Trong đó, để tốt nghiệp, ứng viên cần đạt yêu cầu về ngoại ngữ (có chứng chỉ IELTS 6.0) và có bài báo ISI với vai trò tác giả chính trước khi được phép viết luận án tiến sĩ. Bên cạnh đó, việc theo học tiến sĩ toàn thời gian tại nhà trường còn gặp trở ngại do mức hỗ trợ tài chính chưa thực sự đáp ứng đủ nhu cầu của nghiên cứu sinh”.
Thầy Viên cũng cho hay, nhà trường hiện đang có những kế hoạch hành động chiến lược để nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ. Trước hết, nhà trường đẩy mạnh quảng bá tuyển sinh, tăng độ nhận diện chương trình đào tạo tiến sĩ thông qua các buổi Info-session cùng với tuyển sinh thạc sĩ và các bài viết trên wesite nhà trường, Linkedin. Bên cạnh đó, nhà trường cũng tái khởi động tìm khả năng hợp tác cho hình thức đào tạo song bằng tiến sĩ với đối tác Đức, giúp thu hút thêm nhiều ứng viên chất lượng cao. Đồng thời, việc xây dựng cơ chế tạo việc làm có trả lương trong trường nhằm tạo điều kiện cho nghiên cứu sinh tham gia đề tài nghiên cứu khoa học để có thêm thu nhập cũng được nhà trường hướng đến.
Cần có thêm chính sách hỗ trợ, đầu tư cho hoạt động đào tạo tiến sĩ
Chia sẻ về đề xuất “cần ưu tiên ngân sách đầu tư cho đại học, nhất là các trường định hướng nghiên cứu, có đào tạo tiến sĩ”, Tiến sĩ Hà Thúc Viên cho hay, việc ưu tiên ngân sách đầu tư cho đại học, nhất là các trường định hướng nghiên cứu, có đào tạo tiến sĩ là rất hợp lý.
“Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, việc có những chính sách ưu tiên, hỗ trợ sẽ đóng góp mạnh mẽ vào công tác đào tạo tiến sĩ tại các cơ sở giáo dục.
Việc đào tạo tiến sĩ không chỉ giúp tăng số lượng chuyên gia trình độ cao, mà còn tạo điều kiện để Việt Nam có đội ngũ giảng viên, nhà nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế. Nếu việc đào tạo tiến sĩ có được những chính sách hỗ trợ từ ngân sách, có thể tạo ra những thuận lợi như: Có thêm nguồn tài chính hỗ trợ cho nghiên cứu sinh, cải thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ nghiên cứu, tăng nguồn tài trợ cho các đề tài nghiên cứu cũng như hỗ trợ chi phí xuất bản và hỗ trợ trao đổi học thuật và hợp tác quốc tế”, Tiến sĩ Hà Thúc Viên bày tỏ.
Theo thầy Viên, nguồn ngân sách, kinh phí hỗ trợ nếu được sử dụng, cần được phân bổ tới người học và cơ sở đào tạo để đảm bảo hợp lý và minh bạch. Trong đó, với người học, kinh phí hỗ trợ có thể dùng cho các học bổng toàn phần hoặc một phần, hỗ trợ xuất bản, hỗ trợ tham dự và trình bày nghiên cứu tại các hội thảo trong và ngoài nước, hỗ trợ kinh phí đi trao đổi trong thời gian 3-6 tháng tại các cơ sở nghiên cứu nước ngoài. Các khoản hỗ trợ này cần được xem xét và đánh giá định kỳ. Tuy nhiên, chỉ những nghiên cứu sinh thực hiện tốt nghiên cứu theo đúng tiến độ mới được tiếp tục cấp học bổng cũng như hỗ trợ nghiên cứu.
Đối với cơ sở đào tạo, nguồn kinh phí hỗ trợ này có thể dùng cho việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, kinh phí cho đề tài nghiên cứu và kinh phí mời các chuyên gia, nhà nghiên cứu đồng hướng dẫn nghiên cứu sinh. Đặc biệt, các cơ sở đào tạo tiến sĩ cần thực hiện nghiêm túc việc báo cáo chi tiết theo định kỳ về việc sử dụng kinh phí, tránh thất thoát, lãng phí hoặc phân bổ không công bằng.
Thầy Viên cũng cho rằng, hiện nay, chất lượng đào tạo giữa các cơ sở giáo dục tại Việt Nam còn nhiều chênh lệch, do đó, việc tập trung đào tạo tiến sĩ tại các trường định hướng nghiên cứu là cần thiết. Điều này không chỉ đảm bảo chất lượng đội ngũ tiến sĩ, góp phần nâng cao uy tín học thuật của đất nước, mà còn giúp nhà nước đầu tư có trọng điểm, tránh tình trạng phân tán nguồn lực. Đối với các trường đại học khác nếu có nhu cầu đào tạo tiến sĩ, cần hợp tác với các trường đại học có định hướng nghiên cứu để đảm bảo chất lượng đào tạo.

Tiến sĩ Hà Thúc Viên - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Đức. (Ảnh website trường)
Cùng bàn về vấn đề này, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Đức Lung cho rằng, việc có những ưu tiên, hỗ trợ các cơ sở đào tạo tiến sĩ sẽ giúp các trường học có nguồn kinh phí để nâng cao chất lượng nghiên cứu thông qua việc đầu tư cơ sở vật chất, thu hút nhân tài và cung cấp học bổng cho nghiên cứu sinh, tạo điều kiện để nghiên cứu sinh tập trung toàn tâm vào nghiên cứu.
“Nếu có nguồn ngân sách, kinh phí được ưu tiên hỗ trợ cho việc đào tạo tiến sĩ, cần được phân bổ tới người học và cơ sở đào tạo, một cách minh bạch, có các tiêu chí đánh giá rõ ràng, công khai kết quả sử dụng ngân sách và có cơ chế giám sát hiệu quả.
Các tiêu chí đánh giá việc phân bổ ngân sách có thể bao gồm số lượng giảng viên trình độ cao trong ngành đào tạo tiến sĩ tại cơ sở giáo dục như: giáo sư, phó giáo sư và tiến sĩ. Bên cạnh đó, cần xem xét số lượng công trình khoa học được công bố, chẳng hạn như các bài báo trên tạp chí, hội nghị thuộc danh mục Scopus, cũng như số lượng bằng sáng chế, phát minh.
Ngoài ra, một tiêu chí quan trọng khác là số lượng công trình và bài báo khoa học trung bình mà một nghiên cứu sinh tốt nghiệp trong ba năm gần nhất đã thực hiện, có thể tính theo điểm của Hội đồng Giáo sư Nhà nước.
Cuối cùng, tổng số nghiên cứu sinh theo học tại cơ sở đào tạo cũng cần được cân nhắc để đảm bảo nguồn lực được phân bổ phù hợp với quy mô và năng lực đào tạo của từng trường. Những tiêu chí này sẽ giúp việc sử dụng ngân sách minh bạch, hiệu quả, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng đào tạo tiến sĩ và phát triển học thuật bền vững”, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Đức Lung nhấn mạnh.
Ngoài ra, thầy Lung cho rằng, để nâng cao chất lượng cho việc đào tạo tiến sĩ, chỉ nên ưu tiên các trường định hướng nghiên cứu được phép đào tạo tiến sĩ. Việc đào tạo tiến sĩ đại trà tiềm ẩn nhiều thách thức trong kiểm soát chất lượng, do đó, cần có quy định chặt chẽ và cơ chế giám sát nghiêm ngặt đối với các điều kiện đào tạo. Đặc biệt, cần giám sát điều kiện được phép đào tạo hàng năm, nhất là điều kiện duy trì ngành như quy định hiện hành.
Chủ tịch Hội đồng trường, Trường Đại học Công nghệ Thông tin, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh nhấn mạnh, cần có thêm cơ chế cấp học bổng toàn phần nhiều hơn cho những nghiên cứu sinh giỏi, xuất sắc, bao gồm cả sinh hoạt phí như các nước tiên tiến đang triển khai.
Trong khi đó, để nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng đào tạo đối với nghiên cứu sinh, Tiến sĩ Hà Thúc Viên có những đề xuất, kiến nghị như sau: “Trước hết, cần siết chặt điều kiện xét tuyển đầu vào và đầu ra theo tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo chất lượng đào tạo. Đồng thời, việc tăng cường hỗ trợ tài chính, bao gồm học bổng toàn phần cho các ứng viên xuất sắc, cũng như kinh phí tham dự hội thảo và xuất bản nghiên cứu, cũng cần được chú trọng. Ngoài ra, để thúc đẩy hợp tác quốc tế và trao đổi kiến thức, một trong hai giảng viên hướng dẫn nên là giáo sư từ các trường đại học quốc tế hoặc chuyên gia từ doanh nghiệp nước ngoài. Bên cạnh đó, cần xây dựng chương trình sau tiến sĩ nhằm tạo điều kiện cho nghiên cứu sinh tiếp tục phát triển sự nghiệp nghiên cứu một cách bền vững”.