Cảnh giác biến chứng của bệnh thủy đậu

Thời gian gần đây, Bệnh viện Nhi Trung ương tiếp nhận nhiều trẻ bị biến chứng do mắc thủy đậu.

Một trong những trường hợp biến chứng bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh điển hình mà Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương vừa tiếp nhận gần đây là bé Đ.H (27 ngày tuổi, Bắc Giang).

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Sau khi sinh Đ.H 5 ngày, người mẹ bị lây nhiễm thủy đậu từ con gái lớn (7 tuổi) do không có biện pháp cách ly an toàn. Sau đó mẹ lại tiếp tục chủ quan không cách ly với bé Đ.H và lây cho con khi bé được 14 ngày tuổi.

Lúc này da trẻ xuất hiện các tổn thương dạng nốt phỏng ở da đầu, rồi lan ra toàn thân, liên tục có các cơn sốt 38,5 độ C, kèm theo ho nhiều, thở mệt.

Trẻ được chẩn đoán viêm phổi trên bệnh nhân thủy đậu. Sau 4 ngày điều trị ở bệnh viện tuyến tỉnh, tình trạng suy hô hấp của trẻ ngày càng tăng.

Ngày 20/3, Đ.H được chuyển đến Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương. Ngay sau khi tiếp nhận, các bác sĩ Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương đã thăm khám, thực hiện siêu âm, chụp X-quang phổi, xét nghiệm máu và tiến hành điều trị theo phác đồ bệnh thủy đậu.

Sau 7 ngày, trẻ dần hồi phục, các nốt ban phỏng nước đã khô và đóng vảy, viêm phổi được kiểm soát.

Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Phương Thảo, Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, trẻ nhỏ, nhất là trẻ sơ sinh khi mắc thủy đậu rất dễ gặp những biến chứng khó lường.

Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm nhưng lành tính, không có triệu chứng nặng nề. Thời điểm từ tháng 2 đến tháng 6 hàng năm thường xuất hiện dịch bệnh thủy đậu ở trẻ em.

Tuy nhiên, bệnh rất dễ gây nhiễm trùng da nơi mọc phỏng nước, có thể dẫn đến biến chứng nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm não... nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách.

Vì vậy, việc cha mẹ nhận biết được biểu hiện bệnh sớm, theo dõi dấu hiệu trở nặng để đưa con đến cơ sở y tế điều trị kịp thời là vô cùng cần thiết.

Bác sĩ Thảo cho biết, giai đoạn tiền triệu chứng thường kéo dài 1-2 ngày trước khi xuất hiện ban. Người bệnh mệt mỏi, sốt từ 37,8°-39,4°C.

Ban trên da xuất hiện đầu tiên trên mặt và thân, nhanh chóng lan ra tất cả các vùng khác trên cơ thể.

Phần lớn các nốt phỏng có kích thước nhỏ 5-10 mm, có vùng viền đỏ xung quanh. Các tổn thương da có dạng tròn hoặc bầu dục; vùng giữa vết phỏng dần trở nên lõm khi quá trình thoái triển của tổn thương bắt đầu.

Các nốt phỏng ban đầu có dịch trong, dạng giọt sương, sau đó dịch trở nên đục; nốt phỏng bị vỡ hoặc thoái triển, đóng vảy; vảy rụng sau 1 đến 2 tuần, để lại một sẹo lõm nông.

Ban xuất hiện từng đợt liên tiếp trong 2-4 ngày; trên mỗi vùng da có thể có mặt tất cả các giai đoạn của ban-dát sẩn, phỏng nước và vảy.

Virus thủy đậu lây truyền qua đường hô hấp. Nguồn lây lớn nhất là người bị thủy đậu. Người bệnh có khả năng lây cho người khác khoảng 48 giờ trước khi xuất hiện ban, trong giai đoạn phát ban (thường kéo dài 4-5 ngày), và cho đến khi ban đóng vảy.

Thủy đậu là bệnh dễ lây truyền, tỷ lệ lây nhiễm lên đến 90% ở những người chưa có miễn dịch. Bệnh thường xuất hiện thành dịch ở trẻ em lứa tuổi đi học.

Nếu trong gia đình, trẻ bị mắc thủy đậu, cha mẹ cần lưu ý: Khi trẻ có triệu chứng sốt, phát ban phỏng nước, gia đình nên cách ly con không tiếp xúc với mọi người chung quanh để tránh lây nhiễm. Phòng thông thoáng, sạch sẽ, có ánh nắng mặt trời.

Nếu trẻ sốt trên 38,5 độ C, cho trẻ uống thuốc hạ sốt thành phần paracetamol 10-15mg/kg cách 4-6 giờ/ lần, kết hợp chườm ấm. Lưu ý khi chườm ấm cho trẻ thủy đậu, cần dùng nước ấm tan giá (không quá ấm nóng) để tránh gây vỡ, bỏng rát các phỏng nước trên cơ thể.

Nếu con có các biểu hiện ho nhiều, khó thở, mệt mỏi, li bì cần đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám

Được biết, theo phân loại của Bộ Y tế thủy đậu nằm trong nhóm 9 loại bệnh truyền nhiễm nhóm B cùng với bạch hầu, ho gà, sởi, rubella, than, viêm màng não do mô cầu, chân tay miệng, quai bị.

Theo Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế mùa Đông và đầu Xuân là thời điểm thuận lợi để virus gây bệnh thủy đậu phát triển. Bệnh không chỉ phổ biến ở trẻ nhỏ, cả người lớn cũng có nguy cơ mắc cao.

Thủy đậu lây truyền từ người sang người bằng tiếp xúc trực tiếp, lây qua đường không khí từ các giọt nhỏ dịch tiết đường hô hấp hoặc chất dịch của nốt phỏng.

Bệnh có thể lây gián tiếp qua các đồ vật vừa bị nhiễm chất dịch của nốt phỏng hoặc niêm mạc. Do đó, thủy đậu được xem là một trong những bệnh dễ lây lan nhất.

Bệnh có tính chất lành tính, bệnh nhân thường được theo dõi và điều trị tại nhà. Tuy nhiên, một số trường hợp thủy đậu ở trẻ nhỏ, người suy giảm miễn dịch hay mắc các bệnh mạn tính có thể gây biến chứng viêm màng não, viêm phổi hoặc để lại các di chứng sau này, thậm chí có thể mất mạng.

Tùy vào mức độ mắc bệnh, đã được tiêm phòng hay chưa và sức đề kháng của trẻ, các biến chứng có thể xảy ra nhiều hay ít. Nếu phát hiện trẻ phơi nhiễm với bệnh thủy đậu, trường hợp đã mắc bệnh thủy đậu trước đây hoặc đã tiêm phòng, người dân không cần phải lo lắng.

Trong khi đó, người nhạy cảm (chưa từng mắc thủy đậu) được khuyến cáo nên chủng ngừa thủy đậu càng sớm càng tốt sau khi tiếp xúc với virus.

Có bằng chứng cho thấy vắc-xin giúp ngăn ngừa hoặc làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh nếu được tiêm trong vòng 3-5 ngày sau khi phơi nhiễm.

Đặc biệt, mức độ hiệu quả của vắc-xin có thể đạt được 70-100% nếu tiêm trong vòng 72 giờ.

Khi trẻ mắc bệnh thủy đậu, phụ huynh cần lưu ý ngoài việc hạ sốt và uống thuốc theo đơn bác sĩ, chăm sóc các nốt tổn thương da rất quan trọng.

Nếu tổn thương da không chăm sóc cẩn thận, bị nhiễm trùng, vết sẹo sau này sẽ rất xấu và có thể bội nhiễm, gây nhiễm trùng các cơ quan khác.

Người bệnh cần giữ sạch sẽ các tổn thương da bóng nước, có thể sử dụng thuốc sát trùng nếu bội nhiễm; tuyệt đối không bôi loại thuốc không rõ nguồn gốc lên các vết bóng nước. Bệnh thủy đậu không hạn chế tắm rửa, ngược lại, càng vệ sinh cơ thể sạch sẽ càng tốt.

Về dinh dưỡng, người bị thủy đậu cần ăn uống hợp lý, đầy đủ các chất dinh dưỡng phù hợp với lứa tuổi, uống nhiều nước.

Trong quá trình chăm sóc, nếu có sốt cao liên tục không hạ được kèm theo các dấu hiệu thần kinh như li bì, khó đánh thức, nôn, co giật, khó thở… người bệnh cần được đưa đến cơ sở y tế kịp thời.

Trẻ nên được tiêm phòng để tạo sự miễn dịch chủ động đối với bệnh thủy đậu. Để giảm nguy cơ mắc bệnh, bạn không nên tiếp xúc gần với người chăm sóc hoặc người đang mắc bệnh thủy đậu.

Nếu có dấu hiệu nghi ngờ mắc bệnh này, tốt nhất nên đến cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán sớm.

D.Ngân

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/canh-giac-bien-chung-cua-benh-thuy-dau-d187284.html