Cao Bằng tự hào góp phần xứng đáng cùng cả nước làm nên kỳ tích mùa xuân 1975 - Bài 3
Bài 3: Quan tâm xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập đội quân chủ lực đầu tiên
Giành chính quyền về tay nhân dân bằng đội quân công nông, đó là tư tưởng chỉ đạo đấu tranh vũ trang của Đảng được thể hiện trong chính cương vắn tắt do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo ngay khi Đảng ta ra đời.
Tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những bài học kinh nghiệm đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, Người đã khằng định: Con đường giải phóng dân tộc ta là con đường cách mạng bạo lực, vũ trang khởi nghĩa, “Không có lực lượng vũ trang thì không thể đánh thắng được bọn áp bức.” Tại Hội nghị Trung ương Tám (tháng 5/1941), do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã xác định rõ: “Chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng và nhân dân trong giai đoạn hiện nay”. Người chỉ thị cho Đảng bộ Cao Bằng phải khẩn trương “Chọn những người tốt nhất để tổ chức thành đội tự vệ và tự vệ chiến đấu, phải xây dựng được một lực lượng vũ trang sẵn sàng”. Phát triển lực lượng chính trị, hình thành các khu hoàn toàn Việt Minh, các đội Nam tiến, Tây tiến, Đông tiến đến đâu thì xây dựng lực lượng vũ trang đến đó, “ở đâu có Việt Minh là ở đó có tự vệ” nhằm củng cố bảo vệ xóm làng, bảo vệ cách mạng và chống kẻ địch khủng bố.
Thực hiện sự chỉ đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, vấn đề quan trọng trước tiên là đào tạo đội ngũ cán bộ quân sự, từ tháng 6/1941 đến tháng 10/1944, Đảng bộ Cao Bằng đã chọn cử 68 hội viên cứu quốc của các châu Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình theo học các lớp quân sự tại Điền Đông, Liễu Châu (Trung Quốc). Đó là những “Hạt giống đỏ” đầu tiên của lực lượng vũ trang Cao Bằng và khu Việt Bắc. Công tác huấn luyện quân sự tại chỗ cũng được tiến hành khẩn trương. Cuối năm 1941, các đồng chí Lê Thiết Hùng, Lê Quảng Ba, Hoàng Sâm mở các lớp huấn luyện quân sự cho 100 học viên. Sau đó, là các lớp quân chính được tổ chức tại các châu Hòa An, Hà Quảng, Nguyên Bình. Học viên được trang bị kiến thức về xây dựng lực lượng vũ trang, chiến thuật, chiến lược quân sự và nắm vững, thực hành binh khí, kỹ thuật. Kết thúc khóa học, học viên trở về địa phương tổ chức huấn luyện cho các châu, xã trên phạm vi toàn tỉnh.
Tháng 10/1941, theo chỉ thị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Tỉnh ủy Cao Bằng đã thành lập Đội du kích tập trung đầu tiên tại Pác Bó, xã Trường Hà, châu Hà Quảng do đồng chí Lê Quảng Ba làm Đội trưởng, đồng chí Trần Sơn Hùng đội phó và đồng chí Lê Thiết Hùng làm chính trị viên. Đội được trang bị 2 súng lục, 1 khẩu súng thập, 1 súng bát, 2 súng trường với nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng, bảo vệ cán bộ, làm giao thông liên lạc, tuyên truyền võ trang trong quần chúng, giúp huấn luyện tự vệ chiến đấu cho cơ sở. Đến cuối năm 1942, phong trào tham gia vào các đội tự vệ và luyện tập quân sự phát triển rầm rộ, sôi nổi. Trong năm 1943, các châu Nguyên Bình, Hòa An, Hà Quảng đều có một trung đội hoặc một đại đội tự vệ, một tiểu đội hay một trung đội tự vệ chiến đấu. Các đội tự vệ được trang bị ít súng, còn lại là gươm, dao, giáo, mác, gậy gộc, nhưng các chiến sĩ đều hừng hực khí thế luyện rèn và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ bản làng. Từ tháng 4/1943, Đội vũ trang được thành lập ở Lũng Thàn, Bình Lãng, châu Nguyên Bình (nay là Bình Lãng, Hà Quảng) gồm 30 hội viên người dân tộc Mông, sau đó là Tắp Ná (Hà Quảng). Từ tháng 5/1943, các tổng Việt Minh Hoàng Diệu, Trọng Con, Tranh Đấu, Tri Phương, Lê Lợi, Văn Định lần lượt được thành lập nhằm bảo vệ các xã, tổng, khu Việt Minh hoàn toàn.
Cuối năm 1943 đến đầu năm 1944, lực lượng vũ trang nhiều nơi trong tỉnh đã tổ chức diễn tập quân sự, điển hình là cuộc diễn tập quân sự tại Sĩ Điễng, Nà Sác (Hà Quảng) với hơn 100 tự vệ tham gia. Cuộc diễn tập ở Hòa An có số lượng tự vệ tham gia tới hơn 1.000 người, tạo nên không khí sục sôi cách mạng lan rộng khắp nơi. Tháng 3/1944, châu Hà Quảng thành lập một trung đội vũ trang thoát ly với 50 đội viên do đồng chí Dương Đại Lâm làm đội trưởng; một trung đội ở Hòa An do đồng chí Nguyễn Thế Đỗ làm đội trưởng; một trung đội của khu Thiện Thuật do đồng chí Cao Lý làm đội trưởng. Lần lượt các xã Tam Kim, Hưng Đạo, Hoa Thám, Minh Tâm (Nguyên Bình) đều thành lập các tiểu đội vũ trang. Bên cạnh việc bảo vệ cách mạng và tài sản của nhân dân, các đơn vị này đã chủ động ngăn chặn các đợt khủng bố của địch, diệt ác trừ gian và tổ chức phục kích, tiêu diệt địch, bảo vệ an ninh cho địa phương.

Bia ghi dấu sự kiện lịch sử xưởng quân giới Lê Tổ, khu căn cứ địa Lam Sơn, xã Hồng Việt (Hòa An). Ảnh Phạm Hà
Lực lượng vũ trang của tỉnh không ngừng phát triển đã đặt ra yêu cầu về trang bị vũ khí cho các đơn vị. Thực hiện Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh về sửa soạn tổng khởi nghĩa, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng đã chỉ đạo thành lập xưởng sản xuất vũ khí tại vùng núi Lam Sơn thuộc châu Hòa An. Công xưởng này đã sản xuất được một số bộc phá, lựu đạn, rèn dao, giáo, mác, sửa chữa súng, cung cấp cho các đơn vị tự vệ.
Mọi hoạt động hình thành nên các đội tự vệ tăng cường cho lực lượng vũ trang đều được nhân dân các dân tộc trong tỉnh cưu mang, đùm bọc, gìn giữ bí mật, giúp đỡ về mọi mặt như tiếp tế, ăn, ở,... Đặc biệt, trong hoàn cảnh đời sống khó khăn, có nhiều hộ gia đình nghèo đói, túng thiếu quanh năm nhưng vẫn tìm cách bán vải vóc, tư trang, thậm chí cả ruộng, vườn, nương, rẫy, trâu, bò, để mua vũ khí và hăng hái tham gia lực lượng vũ trang. Nhờ đó, các đội tự vệ phát triển không ngừng từ các đơn vị tự vệ, tự vệ chiến đấu đến các đội tự vệ vũ trang thoát ly, số lượng và chất lượng không ngừng tăng lên, làm cho lực lượng vũ trang ở Cao Bằng ngày càng lớn mạnh, tạo nên tiền đề quan trọng cho sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân.
Xây dựng căn cứ địa cách mạng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, dựa trên nền tảng lực lượng chính trị, các tổ chức đoàn thể quần chúng và sự hình thành, phát triển lực lượng vũ trang. Được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quan tâm trực tiếp chỉ đạo, nhân dân các dân tộc Cao Bằng đã tạo nên khu căn cứ địa cách mạng rộng lớn, kết nối được hành lang liên hoàn từ Pác Bó (Hà Quảng), Lam Sơn (Hòa An) đến Thiện Thuật, Quang Trung của đồng bào Dao, Mông (Nguyên Bình). Địa bàn cách mạng Việt Bắc rộng mở, đã thông thương về đến trung du, đồng bằng Bắc Bộ.
Quá trình xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, cùng với Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình là một trong những điểm sáng nổi bật của tỉnh Cao Bằng. Châu Nguyên Bình sớm có phong trào cách mạng, ngay từ năm 1942, phong trào Việt Minh đã phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của Nguyên Bình ra đời. Do biết dựa vào dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, nơi đây đã hội tụ toàn bộ những yếu tố tiền đề, điều kiện cho sự ra đời của đội quân chủ lực đầu tiên.
Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, vào lúc 17 giờ, ngày 22/12/1944, lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam đã được cử hành trọng thể tại khu rừng Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Tham dự buổi lễ còn có đại diện Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng và đông đảo đại biểu của các dân tộc Tày, Nùng, Mông, Dao thuộc 2 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn. Trong thời khắc thiêng liêng ấy, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã long trọng tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và giao nhiệm vụ cho toàn Đội. Đó là sự kiện chính trị, quân sự quan trọng, bước ngoặt tạo nên sự nhảy vọt trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng của Đảng ta. Đội gồm 34 chiến sĩ, do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy; trong đó có 25 người con ưu tú của nhân dân các dân tộc Cao Bằng. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cao Bằng rất vinh dự, tự hào góp phần làm “bà đỡ” cho sự kiện vô cùng trọng đại này. Sau khi ra đời, Đội đã lập công xuất sắc, đánh thắng ngay trận đầu: Phai Khắt, Nà Ngần, mở ra trang sử hào hùng truyền thống “bách chiến, bách thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam.