Chỉ cần giảm 10% chi phí do rào cản phi thuế quan, thương mại ASEAN có thể tăng thêm hàng chục tỷ USD
Thay đổi để thích ứng với yêu cầu mới và giành thế chủ động trên thương trường trong bối cảnh địa chính trị ngày càng khó lường là điều cần thiết với các doanh nghiệp Việt Nam vào thời điểm hiện tại.

Ông Lê Trọng Minh, Phó Tổng Biên tập Báo Tài chính - Đầu tư phát biểu khai mạc Hội thảo.
Sáng ngày 27/6, Báo Tài chính - Đầu tư phối hợp với Đại sứ quán New Zealand tổ chức Hội thảo “Gỡ rào cản phi thuế quan vì thịnh vượng chung ASEAN”.
Phát biểu khai mạc tại Hội thảo, ông Lê Trọng Minh, Phó tổng biên tập Báo Tài chính - Đầu tư cho biết, Hội nghị Cấp cao ASEAN 46 vừa diễn ra tại Kuala Lumpur cách đây tròn 1 tháng, các nhà lãnh đạo ASEAN đã khẳng định lại định hướng chiến lược đến năm 2045, tập trung vào việc nâng cao khả năng liên kết kinh tế, thúc đẩy số hóa thủ tục hải quan và thương mại, giảm thiểu các rào cản phi thuế quan không cần thiết.
Tại đây, nhiều sáng kiến quan trọng được đưa ra như: Thúc đẩy việc hài hòa tiêu chuẩn, tăng tốc triển khai Hệ thống Cửa khẩu một cửa ASEAN (ASW); Chuẩn bị nâng cấp Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) vào cuối năm nay; Cam kết không để các hiệp định song phương ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích chung của cộng đồng ASEAN.
Ông Minh cho hay, đây là cơ hội nhưng cũng là thách thức lớn đối với các quốc gia thành viên ASEAN, trong đó có Việt Nam – một đất nước đang tích cực hội nhập và là một trong những nền kinh tế có độ mở cao nhất trong khu vực.
Trong suốt thời gian qua, trong tiến trình hội nhập khu vực, ASEAN đã đạt được những bước tiến quan trọng. Tỷ lệ thuế quan nội khối đã được cắt giảm xuống dưới 1%. Tuy nhiên, các rào cản phi thuế quan (Non-Tariff Barriers – NTBs) vẫn đang là thách thức đối với cộng đồng doanh nghiệp.
Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới (World Bank), có 9 loại biện pháp phi thuế quan chủ yếu được sử dụng. Trong đó, biện pháp kiểm dịch động thực vật và an toàn thực phẩm (SPS) được sử dụng nhiều nhất với 37,5%; tiếp đó là rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT) 37,5%; kiểm tra hàng hóa trước vận chuyển và các thủ tục khác là 1,3%...
Mặc dù mục tiêu của các biện pháp này là chính đáng, đó là để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, môi trường và sản xuất trong nước, song chúng có thể trở thành rào cản vô hình đối với thương mại và đầu tư vào khu vực nếu không được thiết kế minh bạch, hài hòa và có khả năng dự đoán. Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), sẽ phải chịu chi phí tuân thủ cao do phải kiểm định lại sản phẩm theo tiêu chuẩn riêng từng nước ASEAN, hay phải đối mặt với những khó khăn do thiếu thông tin kịp thời về các thay đổi kỹ thuật, SPS, các chứng nhận đặc thù như Halal, dược phẩm, việc áp dụng thủ tục số hóa, đặc biệt ở các khu vực ngoài trung tâm…
Theo Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), chi phí thương mại do NTBs chiếm đến 2–4 % giá trị hàng hóa. Còn theo một nghiên cứu của Dự án phân tích thương mại toàn cầu (GTAP) thuộc Đại học Purdue (Hoa Kỳ), chỉ cần giảm 10% chi phí do NTBs, ASEAN có thể thu về mức tăng trưởng thương mại 3–4%, tương đương hàng chục tỷ USD.
Như vậy, việc tháo gỡ các NTBs, nếu làm đúng cách sẽ giúp giảm đáng kể chi phí giao dịch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận thị trường khu vực; thúc đẩy dòng vốn đầu tư nội khối, bởi các nhà đầu tư luôn tìm đến những nơi có khung khổ pháp lý minh bạch và chuỗi cung ứng thuận lợi; và quan trọng hơn cả là tăng cường niềm tin của người tiêu dùng, khi họ tiếp cận được các sản phẩm chất lượng với giá cả cạnh tranh, mà vẫn an toàn, phù hợp với chuẩn mực quốc tế.
Tuy vậy, ông Minh cũng nhấn mạnh, tháo gỡ rào cản phi thuế quan không có nghĩa là mở cửa vô điều kiện, mà cần loại bỏ các biện pháp bất hợp lý hoặc chồng chéo. Bên cạnh đó, hài hòa hóa tiêu chuẩn kỹ thuật giữa các quốc gia ASEAN, tăng cường tính minh bạch và khả năng dự đoán chính sách, và đặc biệt, số hóa thủ tục hành chính theo hướng đồng bộ khu vực.
Nhìn nhận thị trường toàn cầu đang thay đổi, và nhà đầu tư không còn tìm đến nơi "rẻ hơn", mà đến nơi "dễ làm ăn hơn", "thông minh hơn", và "bền vững hơn", ông Minh đánh giá, cạnh tranh giữa các quốc gia sẽ phần nào được quyết định bởi ai gỡ được nhiều rào cản hơn mà vẫn bảo vệ được mình tốt hơn. Nói cách khác, cần làm cho việc mở cửa trở nên thông minh, hiệu quả và có định hướng.
Gỡ rào cản phi thuế quan – nếu làm đúng cách – chính là hành động kiến tạo một ASEAN thịnh vượng, bao trùm và cạnh tranh bền vững.
Đánh giá cao chủ đề do Báo Tài chính – Đầu tư tổ chức, Đại sứ New Zealand tại Việt Nam Caroline Beresford cho hay, bối cảnh hiện nay đặt ra ngày càng nhiều thách thức đối với các doanh nghiệp: bất ổn địa chính trị, các rào cản thuế quan mới, cạnh tranh gia tăng, và những tác động đi kèm tới niềm tin của người tiêu dùng.
Trong khi không thể kiểm soát hoàn toàn các làn sóng toàn cầu này, chúng ta vẫn có thể tận dụng hiệu quả hơn các khuôn khổ hiện có –các hiệp định thương mại tự do, cơ chế tham vấn, quy chuẩn thương mại và luật lệ quốc tế – đồng thời tiếp tục cải thiện những yếu tố mà chúng ta vẫn có khả năng kiểm soát.

Bà Caroline Beresford - Đại sứ New Zealand tại Việt Nam.
Bà Caroline Beresford nhìn nhận, việc tháo gỡ các rào cản phi thuế quan (NTBs) cần được đặt ở vị trí trung tâm trong nỗ lực này. NTBs thường xuyên được đề cập trong các đàm phán thương mại, các diễn đàn khu vực và được quy định trong nhiều hiệp định quốc tế.
Trên thực tế, hiện có tới hơn hai triệu biện pháp phi thuế quan đang có hiệu lực, tác động tới 78% giá trị thương mại thế giới và việc áp dụng các biện pháp này đã gây tổn thất tới 2.4 nghìn tỷ NZD trong năm 2019.
Mặc dù hiện không có số liệu cập nhật cho tới hiện nay, các doanh nghiệp New Zealand cho biết về các biện pháp phi thuế quan có những ảnh hưởng tới công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Đơn cử, như các quy định về an ninh sinh học sẽ giúp bảo vệ sức khỏe của người dân cũng như vật nuôi và cây trồng – các yếu tố có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy thương mại.
“Tuy nhiên, nếu các biện pháp này được thực hiện một cách không phù hợp, bao gồm việc hạn chế thương mại, các biện pháp phi thuế quan có thể trở thành các rào cản phi thuế quan, từ đó cản trở các dòng chảy hàng hóa và dịch vụ tự do, làm chậm trễ các hoạt động xuất khẩu và phương hại tới các nỗ lực tập thể của chúng ta trong việc hội nhập khu vực sâu hơn” Đại sứ cho hay.
Chính phủ các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam và New Zealand, đã có những bước tiến đáng kể trong việc giảm thiểu NTBs. Tuy nhiên, chúng ta vẫn còn nhiều việc cần làm – và chỉ có thể làm được với nỗ lực tập thể từ tất cả các bên. Trong đó, tiếng nói của cộng đồng doanh nghiệp đóng vai trò thiết yếu.
Hiện nay, New Zealand luôn cộng tác chặt chẽ với cộng đồng doanh nghiệp để hiểu rõ những thách thức họ đang gặp phải và cố gắng có tiếng nói đại diện cho họ tại các diễn đàn quốc tế. Chính sách “mọi cánh cửa đều là phù hợp” của chúng tôi đảm bảo rằng các nhà xuất khẩu có thể liên hệ với bất kỳ cơ quan quản lý thương mại nào về vấn đề này và sẽ nhận được phản hồi trong vòng 48 giờ.
Mọi NTBs được phản ánh đều được ghi nhận trong cơ sở dữ liệu quốc gia và được theo dõi hiện tại chúng tôi đang giám sát 194 trường hợp, trong đó một số đã được ưu tiên xử lý. Chúng tôi giải quyết các vấn đề này thông qua nhiều kênh, bao gồm Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tiếp xúc song phương, các ủy ban trong khuôn khổ các hiệp định thương mại tự do (FTA), cũng như thông qua các phương pháp tiếp cận đổi mới do đối tác dẫn dắt.
Trên tất cả, một khu vực tư nhân năng động và phát triển mạnh cả trong nước và quốc tế là trung tâm của phát triển bền vững. Các quy định tốt sẽ thúc đẩy thương mại cho nền kinh tế, và việc giảm thiểu các NTBs cũng góp phần tăng cường hội nhập và thương mại khu vực.
Do đó, việc chia sẻ kinh nghiệm thực tế sẽ giúp xác định những khoảng trống chính sách cần điều chỉnh. Đặc biệt, truyền thông sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và truyền tải các nội dung mang tính xây dựng. Về phía các nhà hoạch định chính sách và cơ quan quản lý, chúng tôi cần lắng nghe cẩn trọng và biến những điều đó thành các quy định minh bạch, hiệu quả, phù hợp với cam kết quốc tế, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
Theo ông Đoàn Vũ Hoài Nam, Cộng sự cấp cao, Công ty Luật TNHH ASL, dưới góc nhìn của một hãng luật quốc tế tư vấn cho cả doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), ASEAN, đặc biệt Việt Nam vẫn là điểm đến hấp dẫn đối với nhà đầu tư quốc tế nhờ vào sự năng động của nền kinh tế, dân số trẻ và các cam kết thương mại khu vực. Đối với New Zealand, ASEAN mang lại những cơ hội chiến lược trong các ngành mà quốc gia này có thế mạnh tương thích với định hướng phát triển của khu vực.
Trong lĩnh vực nông sản – thực phẩm, nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng đối với thực phẩm chất lượng cao và truy xuất được nguồn gốc đang mở ra cơ hội cho doanh nghiệp New Zealand trong các mảng sữa, nông nghiệp bền vững và logistics chuỗi lạnh. Tuy nhiên, để tận dụng cơ hội, các doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ những yêu cầu kỹ thuật (SPS), giấy phép nhập khẩu và quy định về nguồn cung nội địa.
Năng lượng tái tạo cũng là lĩnh vực hợp tác đầy tiềm năng. Khi các quốc gia ASEAN thúc đẩy đa dạng hóa năng lượng, nhà đầu tư đang phải đối mặt với các thách thức như hợp đồng mua bán điện (PPA) không đồng nhất, giới hạn sở hữu nước ngoài và quy trình cấp phép phức tạp. Với kinh nghiệm dẫn đầu trong năng lượng địa nhiệt, năng lượng gió và quản trị phát triển bền vững, New Zealand có thể đóng vai trò hỗ trợ khu vực thông qua các mô hình IPP hoặc PPP.

Giáo dục và đào tạo nghề cũng là những lĩnh vực tăng trưởng nhanh. Chương trình nâng cao kỹ năng lao động trong khu vực tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức giáo dục New Zealand cung cấp chương trình tiếng Anh và đào tạo thực hành. Dù vậy, việc tuân thủ các quy định về giấy phép, phê duyệt chương trình giảng dạy và hợp tác vận hành với đối tác bản địa vẫn là yêu cầu bắt buộc.
Trong nền kinh tế số, sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử và hạ tầng số đang kéo theo nhu cầu đầu tư mạnh vào fintech, trí tuệ nhân tạo và an ninh mạng. Những rào cản phi thuế quan như quy định lưu trữ dữ liệu trong nước và bảo hộ sở hữu trí tuệ không đồng đều là mối lo ngại lớn. Sự tham gia của New Zealand trong các sáng kiến như Hiệp định Đối tác Kinh tế Số (DEPA) có thể là điểm tựa cho việc hài hòa quy định và tạo môi trường thuận lợi cho hợp tác đầu tư.
Do đó, trong bối cảnh địa chính trị ngày càng khó lường, việc chuẩn bị sẵn sàng về pháp lý trở thành nhu cầu chiến lược. Doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài không thể chỉ phản ứng bị động trước rủi ro pháp lý mà cần xây dựng tầm nhìn chủ động. Việc lập bản đồ pháp lý và quy định tại từng quốc gia là cơ sở quan trọng để xây dựng kế hoạch thâm nhập thị trường – bao gồm quy định về lao động, môi trường và dữ liệu.
Khung pháp lý trong hợp đồng cũng cần được điều chỉnh phù hợp với tính đa dạng của hệ thống pháp luật ASEAN – từ cơ chế giải quyết tranh chấp nhiều cấp độ, điều khoản bồi thường đặc thù từng quốc gia, đến các phương án dự phòng cho việc trì hoãn phê duyệt hành chính.
Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là trụ cột không thể thiếu. Doanh nghiệp cần chủ động đăng ký nhãn hiệu, sáng chế và bản quyền tại từng thị trường mục tiêu để giảm thiểu rủi ro bị bên khác chiếm thế độc quyền chứng nhận quyền sở hữu trí tuệ hoặc tài sản trí tuệ bị chiếm đoạt, sử dụng sai mục đích. Đặc biệt với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực số hoặc dựa vào R&D, việc xây dựng, áp dụng chiến lược sở hữu trí tuệ chính là yếu tố then chốt bảo vệ giá trị dài hạn.
Cuối cùng, việc hợp tác với các bên tư vấn pháp lý uy tín tại địa phương là một lợi thế chiến lược. Các đối tác bản địa có thể cung cấp sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức pháp lý và khả năng áp dụng trong thực tế, giúp doanh nghiệp chủ động ứng phó và điều chỉnh hoạt động tuân thủ. Đặc biệt trong các ngành đang thay đổi nhanh như công nghệ tiêu dùng và giáo dục, mối quan hệ này là nhân tố then chốt để đảm bảo vận hành hiệu quả và phối hợp tốt với cơ quan chức năng.