Chiến lược nợ công đến 2030: Đảm bảo nguyên tắc nguồn vay trong nước là cơ bản
Bên lề hội nghị phổ biến và triển khai Chiến lược nợ công đến năm 2030 do Bộ Tài phối hợp cùng Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Kinh tế Liên bang Thụy Sỹ tổ chức ngày 20 - 21/6/2022, phóng viên Thời báo Tài chính Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Trương Hùng Long – Cục trưởng Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính), xung quanh việc triển khai chiến lược này.
PV: Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030 (Chiến lược), xin ông giới thiệu khái quát về chiến lược này?
Ông Trương Hùng Long
Ông Trương Hùng Long: Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 460/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030. Chiến lược này cụ thể hóa Nghị quyết 07-NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong đó, quy định về quản lý, sử dụng các nguồn vốn nợ công từ nay đến 2030, đảm bảo các mục tiêu, bao gồm huy động nguồn vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế trong khuôn khổ cân bằng giữa quản lý về ngân sách nhà nước, huy động vốn cho đầu tư phát triển theo cơ cấu chung của Chính phủ và đảm bảo kiểm soát nợ công an toàn, bền vững.
Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị quy định tập trung huy động các nguồn vốn từ trong nước làm cơ bản, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng và kết hợp hai nguồn vốn này. Bên cạnh đó, Việt Nam phải được kiểm soát chặt chẽ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này, tăng cường tính công khai minh bạch nguồn vốn nợ công, kiểm soát nợ công trong ngưỡng cho phép trên cơ sở kiểm soát bội chi ngân sách, cũng như cơ cấu chi ngân sách trong giai đoạn từ năm 2021 đến 2030.
PV: Ông có thể cho biết rõ hơn về những điểm mới của Chiến lược trong phân bổ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đối với nguồn nợ công?
Ông Trương Hùng Long: Trong giai đoạn 2016 - 2020, bội chi ngân sách bình quân khoảng 3,6% GDP, đảm bảo mục tiêu không quá 3,9% GDP theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội; giai đoạn 2021 - 2025, bội chi ngân sách nhà nước sẽ được kiểm soát 3,7% GDP, trong đó bội chi ngân sách trung ương là 3,4% GDP và bội chi ngân sách địa phương là 0,3% GDP. Điều đó có nghĩa rằng, các bộ, ngành, địa phương được phép sử dụng nguồn vốn nợ công.
Tuy nhiên, huy động vốn nợ công để phục vụ cho các mục tiêu đầu tư của ngân sách thì sẽ được phân bổ theo cơ cấu của ngân sách. Trong phạm vi địa phương thì tất cả các địa phương được sử dụng 0,3%. Do vậy, việc huy động vốn trong nước cũng như nguồn vốn nước ngoài để cho các dự án đầu tư địa phương thì phải căn cứ các mục tiêu trên.
Nguồn: Bộ Tài chính
PV: Mục tiêu về nợ công đặt ra tới năm 2030 là gì, thưa ông?
Ông Trương Hùng Long: Mục tiêu tới năm 2030, Việt Nam kiểm soát nợ công ở mức không quá 60% GDP, nợ chính phủ không quá 50% GDP, nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% tổng thu ngân sách nhà nước. Trong giai đoạn 2021-2025 cũng đặt ra với trần nợ công là 60% GDP thì ngưỡng đặt ra là 55% GDP, nợ chính phủ có ngưỡng là 45% GDP. Điều này có nghĩa là khi nợ công đạt ở mức 55% và nợ chính phủ ở mức 45% thì chúng ta sẽ bắt đầu có những biện pháp kiểm soát nợ công trong phạm vi cho phép, cắt giảm những nhiệm vụ chi tiêu, kiểm soát bội chi ngân sách nhà nước, đưa ra các biện pháp hạn chế tăng chi ngân sách.
PV: Thực tế cho thấy, hiện kinh tế thế giới có nhiều biến động, ảnh hưởng của dịch Covid-19, vậy thách thức trong việc thực hiện các chỉ tiêu này như thế nào, thưa ông?
Ông Trương Hùng Long: Trong các giai đoạn từ năm 2021 đến năm 2025, cũng như tới năm 2030 thì bối cảnh kinh tế toàn cầu, cũng như trong nước sẽ có tác động rất lớn tới việc huy động vốn.
Thứ nhất, trong giai đoạn 2021 - 2025, Việt Nam sẽ không còn được vay nguồn vốn ODA của Ngân hàng Thế giới, vay vốn IDF của Ngân hàng Phát triển châu Á và đang phải tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, trong tương lai không xa thì Việt Nam sẽ không còn nguồn vốn vay ưu đãi nữa mà phải tiếp cận thị trường, đó là nguồn vốn nước ngoài.
Thứ hai, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị đặt ra nhiệm vụ là phát triển thị trường vốn trong nước và coi nguồn vốn trong nước là cơ bản. Do vậy nhiệm vụ đặt ra là phát triển thị trường vốn trong nước lên, đảm bảo có được nguồn vốn dồi dào, kiểm soát tốt thị trường vốn trong nước, giảm chi phí vay xuống.
Thứ ba, khi Việt Nam không còn vay vốn ODA mà chuyển sang vay thương mại thì sẽ phải chịu rủi ro về đồng tiền, lãi suất, các điều kiện vay khác thì cần phải có các biện pháp xử lý những rủi ro đó.
Thực tế cho thấy, sau giai đoạn 2016 - 2020 chúng ta đã cải cách mạnh mẽ về quản lý nợ công, kiểm soát được nợ công, dư địa nợ công của Việt Nam tương đối rộng, qua đó chúng ta có được sự co giãn trong thực hiện chính sách quản lý nợ công. Nhờ đó, nợ công ở Việt Nam đến nay khoảng 43,7% GDP trong khi đó trần nợ công cho phép là 60%. Nếu cộng thêm các gói kích cầu của Chính phủ thì nợ công cũng mới lên khoảng 45% GDP.
PV: Theo ông, có cơ sở nào để thực hiện tốt các mục tiêu, nhiệm vụ trên không?
Ông Trương Hùng Long: Hiện nay chúng tôi đang sử dụng hai mô hình quản lý nợ công là Chiến lược nợ trung hạn (MTDF); mô hình Quản lý nợ bền vững (DSA). Đây là một trong những mô hình quản lý nợ chủ đạo có liên hệ mật thiết với nhiệm vụ phân tích, dự báo và thực hiện các nghiệp vụ quản lý rủi ro danh mục nợ để đảm bảo an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia. Qua đó, chúng tôi đã xây dựng, nghiên cứu, phân tích các kịch bản quản lý nợ công đến năm 2030, để lựa chọn kịch bản phù hợp nhất với điều kiện hiện nay, cũng như phù hợp với yêu cầu quản lý nợ công.
Thứ hai là, các giải pháp để triển khai chiến lược nợ công đến năm 2030 được đưa ra có tính khả thi cao, đều có độ “đệm” trong phương án xử lý.
Thực tế cho thấy, sau giai đoạn 2016 - 2020 chúng ta đã cải cách mạnh mẽ về quản lý nợ công, kiểm soát được nợ công, dư địa nợ công của Việt Nam tương đối rộng, qua đó chúng ta có được sự co giãn trong thực hiện chính sách quản lý nợ công. Nhờ đó, nợ công ở Việt Nam đến nay khoảng 43,7% GDP trong khi đó trần nợ công cho phép là 60%. Nếu cộng thêm các gói kích cầu của Chính phủ thì nợ công cũng mới lên khoảng 45% GDP.
Với đường hướng chỉ đạo rõ ràng của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 07), Chính phủ (Chiến lược nợ công đến năm 2030) cùng với sự quyết tâm của các cấp, các ngành,… chúng tôi tin tưởng sẽ kiểm soát được tình hình nợ công đến năm 2030.
PV: Xin cảm ơn ông!
Đề xuất giải pháp nhằm đảm bảo an toàn tài chính quốc gia và an toàn nợ công
Theo TS. Dương Tiến Dũng – Phó Vụ trưởng Vụ Ngân sách nhà nước (Bộ Tài chính), để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ ngân sách nhà nước (NSNN) hàng năm và hoàn thành mục tiêu của cả giai đoạn 2021-2025, góp phần từng bước kiểm soát bội chi để tiến tới cân bằng thu, chi và kiềm chế nợ công, Bộ Tài chính đã đề ra một số giải pháp cụ thể, bao gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu, sửa đổi Luật NSNN và các văn bản pháp luật liên quan theo hướng đổi mới cơ chế phân cấp ngân sách, cơ bản khắc phục tình trạng lồng ghép trong quản lý NSNN, tăng vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương; đẩy mạnh phân cấp, khuyến khích các địa phương sáng tạo, tăng thu, huy động các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, tạo sự chủ động và tự chịu trách nhiệm cho chính quyền địa phương trong việc quyết định, sử dụng ngân sách.
Thứ hai, huy động vào ngân sách phù hợp, thực hiện chính sách động viên phù hợp với trình độ phát triển, mở cửa của nền kinh tế, hướng tới thông lệ chung. Khai thác các dư địa tăng thu, bồi dưỡng nguồn thu một cách bền vững. Khẩn trương sửa đổi, hoàn thiện một số luật thuế. Quản lý các nguồn thu từ đất đai, tài nguyên, khoáng sản để tránh thất thoát và đảm bảo tính bền vững.
Thứ ba, tiếp tục cơ cấu lại chi ngân sách theo hướng bền vững, tập trung cho các nhiệm vụ quan trọng cấp bách.
Thứ tư, đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và ngoài nước. Tiếp tục phát hành trái phiếu Chính phủ tập trung vào kỳ hạn dài từ 5 năm trở lên, kết hợp linh hoạt phát hành một số kỳ hạn dưới 5 năm để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường trái phiếu Chính phủ; thực hiện tái cơ cấu danh mục nợ trái phiếu Chính phủ.
Thứ năm, tăng cường quản lý tài chính, NSNN, nợ công theo kế hoạch trung hạn, bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất giữa kế hoạch tài chính với kế hoạch đầu tư công, kế hoạch vay, trả nợ công.