Chính sách công nghiệp: Đòn bẩy cho mục tiêu tăng trưởng 2 con số
Chính sách công nghiệp hoàn chỉnh, phù hợp sẽ tạo 'cú huých' quan trọng, giúp Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng 2 con số trong giai đoạn 2026-2030.
Công nghiệp đóng góp quan trọng vào tăng trưởng
Tại Hội thảo công bố Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2025 diễn ra vào ngày 25/6, tại Hà Nội, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước đã tập trung thảo luận về chính sách công nghiệp cũng như những tác động của chính sách công nghiệp đến tăng trưởng của khu vực kinh tế tư nhân nói riêng và mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung.

PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Nguyễn Hòa
Liên quan đến vai trò của khu vực công nghiệp đối với nền kinh tế, TS. Nguyễn Quốc Việt – Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: Năm 2024 kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ, GDP đạt 7,09%, vượt mục tiêu Quốc hội đề ra là 6-6,5%. Kết quả này chủ yếu nhờ vào sự đóng góp của khu vực công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo với mức tăng trưởng gần 10%.
Theo các chuyên gia của Trường Đại học Kinh tế, công nghiệp giữ vai trò cốt lõi trong hệ thống các ngành kinh tế, cùng với nông nghiệp, xây dựng và dịch vụ, tạo thành trục phát triển chính của mọi nền kinh tế. Tại Việt Nam, công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo đóng góp phần lớn trong GDP, giữ vị trí động lực then chốt trong thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu, nâng cao năng suất lao động và tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ sang nhiều lĩnh vực khác như: Logistics, tài chính, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Việt Nam trong thập kỷ gần đây đã đạt được nhiều thành tựu tích cực trong việc nâng cao vị trí trên bảng xếp hạng cạnh tranh công nghiệp (CIP), đã vượt qua Philippines và Indonesia, vươn lên vị trí thứ tư trong khu vực ASEAN, sau Singapore, Malaysia và Thái Lan.
Mặc dù khu vực công nghiệp phục hồi mạnh mẽ, nhưng Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) giảm dưới 50 điểm từ quý IV/2024 phản ánh sự suy giảm trong sản xuất và đơn hàng. Đồng thời, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường đạt kỷ lục vào năm 2024 và vẫn rất cao trong những tháng đầu năm 2025 cho thấy doanh nghiệp vẫn đối mặt với những khó khăn.
Đồng tình với quan điểm trên, theo PGS.TS. Nguyễn Trúc Lê - Chủ tịch Hội đồng Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội: Mặc dù nền kinh tế Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19, đạt gần 7% trong quý I/2025, nhưng vẫn còn đó những điểm nghẽn mang tính cấu trúc, đặc biệt liên quan đến chính sách công nghiệp và khu vực tư nhân.
Cụ thể, năng suất lao động của khu vực tư nhân còn thấp, khu vực tư nhân hiện đóng góp khoảng 50% GDP, 30% thu ngân sách, 82% tổng số lao động. Nhưng năng suất lao động, trình độ công nghệ, mức độ liên kết chuỗi còn thấp. Mô hình tăng trưởng hiện tại vẫn phụ thuộc nhiều vào thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và xuất khẩu thô, năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) ở mức thấp và nhiều năm thậm chí âm.

Các chuyên gia kinh tế tham gia phiên thảo luận trong khuôn khổ hội thảo. Ảnh: Nguyễn Hòa
Tạo “cú huých” tăng trưởng kinh tế
Theo các chuyên gia kinh tế, để đạt được mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong thời gian qua, và mức tăng trưởng công nghiệp tích cực có một phần đóng góp không nhỏ từ chính sách công nghiệp.
Cụ thể, thời gian qua Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách công nghiệp khác nhau, nhằm phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp hỗ trợ… quá trình đó đã góp phần duy trì đà công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tạo điều kiện cho nhiều ngành công nghiệp chế biến, chế tạo phát triển. Tuy nhiên, quá trình thực thi chính sách của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, chưa phát huy được hết năng lực của ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Trong bối cảnh, Việt Nam đặt mục tiêu trở thành quốc gia thu nhập cao vào năm 2045, đây được đánh giá là mục tiêu không hề đơn giản, theo đó để đạt được mục tiêu trên, việc xây dựng một chính sách công nghiệp là cần thiết. Chính sách sẽ góp phần thay đổi mô hình tăng trưởng, xác định sản phẩm có lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Hình thành thể chế hiệu quả, nâng cao năng lực khu vực tư nhân, tạo sự đồng lòng trong toàn nền kinh tế.
Đặc biệt, để phù hợp với bối cảnh mới, định hướng chính sách công nghiệp trong thời gian tới cần được xác lập trên cơ sở tận dụng thế mạnh hiện có, trong đó có công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn đóng vai trò hạt nhân. Chính sách cần hướng vào việc tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực tư nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa, bằng việc đảm bảo nguồn lực về đất đai, vốn, lao động và công nghệ.
Ngoài ra, cần có giải pháp tiếp cận chính sách dựa trên lợi thế so sánh, phát huy hiệu ứng lan tỏa của chuỗi giá trị trong nước. Song song với đó, cần có chính sách phù hợp nhằm tận dụng tối đa lợi thế so sánh, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân, tạo động lực mạnh mẽ giúp các ngành công nghiệp trong nước nâng cao hiệu quả sản xuất, trình độ công nghệ, vị thế trong mạng lưới thương mại toàn cầu.
Khi được thực thi trên cơ sở nguồn lực, quy định rõ ràng cùng cơ chế giám sát, đánh giá hiệu quả, chính sách công nghiệp sẽ thực sự trở thành công cụ chiến lược trong mục tiêu đưa Việt Nam vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh toàn cầu mới.
TS.Dorsata Madani - Chuyên gia kinh tế cấp cao của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam: Chính sách công nghiệp cần tập trung nâng cao nội lực của doanh nghiệp trong nước, đồng thời có chính sách tập trung hỗ trợ một số ngành công nghiệp trọng điểm, có tính chất liên ngành và hỗ trợ tích cực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.