Chính thức: Tổ chức tín dụng được quyền thu giữ tài sản đảm bảo
Việc giao quyền cho tổ chức tín dụng được thu giữ tài sản đảm bảo là kế thừa quy định tại Nghị quyết 42/2017 của Quốc hội khóa XIV
Sáng 27-6, với 435 đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua dự luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật các tổ chức tín dụng (TCTD).
Trước đó, thừa ủy quyền của Thủ tướng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng đã trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của ĐBQH về dự luật này.
Đồng bộ và hiệu quả
Mục tiêu của luật này là các quy định được thiết kế đảm bảo tính đồng bộ với Luật Các TCTD năm 2024, các luật liên quan khác và các văn bản quy định chi tiết.
“Chính phủ đã tiến hành rà soát kỹ lưỡng để đảm bảo dự thảo Luật không mâu thuẫn với các quy định hiện hành, đồng thời phù hợp với các dự thảo luật đang được trình tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV. Đặc biệt, các quy định liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm (TSĐB) đã được xem xét để sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành văn bản mới nếu cần thiết, nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng và thống nhất”, Thống đốc NHNN báo cáo.
Dự luật giao cho Chính phủ hướng dẫn nhiều điều khoản để đảm bảo việc tổ chức thi hành Luật đạt hiệu quả cao. Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho hay: NHNN sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan để rà soát, đánh giá và đề xuất các nội dung triển khai luật, bao gồm cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu, cũng như trách nhiệm của các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ và các bên liên quan.
“Quy định này không chỉ giúp tăng cường tính minh bạch mà còn đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các bên trong quá trình xử lý nợ xấu”. Thống đốc NHNN báo cáo.
Một điểm nhấn quan trọng trong luật là phân cấp thẩm quyền quyết định cho vay đặc biệt từ Thủ tướng Chính phủ sang NHNN. Quy định này áp dụng đối với các khoản vay đặc biệt có lãi suất 0%/năm hoặc không có TSBĐ, nhằm tăng tính linh hoạt và kịp thời trong xử lý các tình huống khó khăn về thanh khoản của TCTD.

Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu. Ảnh: VTQ
Chính phủ đề xuất chỉnh sửa khoản 1 Điều 1 dự thảo Luật để quy định rõ: “Ngân hàng Nhà nước quyết định cho vay đặc biệt có tài sản bảo đảm, không có tài sản bảo đảm đối với tổ chức tín dụng trong trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 192 của Luật này. Tài sản bảo đảm của khoản vay đặc biệt từ Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Lãi suất cho vay đặc biệt của Ngân hàng Nhà nước là 0%/năm.”
“Quy định này không chỉ làm rõ điều kiện áp dụng mà còn đảm bảo phù hợp với cơ chế điều hành chính sách tiền tệ và thực tiễn hiện nay”, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng trình bày.
Thu giữ TSBĐ phải đáp ứng quy định của Chính phủ
Báo cáo giải trình, tiếp thu cho hay: Việc xử lý TSBĐ của các khoản nợ xấu là một trong những nội dung nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ đại biểu Quốc hội và Ủy ban Kinh tế và Tài chính.
Thống đốc NHNN cho biết: Chính phủ đã tiếp thu tối đa các ý kiến này, đặc biệt là về điều kiện thu giữ TSBĐ và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan như Ủy ban nhân dân cấp xã và Công an cấp xã. Dự thảo Luật kế thừa hai quy định từ Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu, đồng thời bổ sung các điều kiện cụ thể để đảm bảo tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi của các bên.
Dự luật bổ sung điều kiện: “Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền.”
Ngoài ra, dự luật cũng bổ sung quy định công khai thông tin bằng hình thức niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở UBND cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và nơi có TSBĐ là bất động sản. Đối với TSBĐ là động sản, Chính phủ đề xuất giữ nguyên hình thức công khai thông tin theo dự thảo đã trình, do tính chất dễ di chuyển của loại tài sản này.
Để đảm bảo thủ tục thu giữ TSBĐ được thực hiện chặt chẽ, Chính phủ đề xuất bổ sung quy định: “Tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ.”
Đồng thời, các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và tổ chức mua bán, xử lý nợ phải xây dựng quy định nội bộ về trình tự, thủ tục thu giữ TSBĐ, bao gồm cả trường hợp ủy quyền thu giữ. Những quy định này không chỉ giúp tháo gỡ vướng mắc mà còn giảm thiểu rủi ro phát sinh, đồng thời cụ thể hóa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân theo Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Điều 198a. Quyền thu giữ tài sản bảo đảm
1. Bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ để xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc trong văn bản khác (sau đây gọi là hợp đồng bảo đảm) và quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa Vụ.
Trường hợp bên bảo đảm, người đang giữ tài sản bảo đảm không giao tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ để xử lý thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ được thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều này.
2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự;
b) Hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;
c) Biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba theo quy định của pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ;
d) Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật; không thuộc trường hợp bị tạm đình chỉ xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản;
đ) Tài sản bảo đảm được thu giữ phải đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ;
c) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ đã thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều này.
3. Chậm nhất 15 ngày trước ngày tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ phải thực hiện thủ tục công khai thông tin về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ.