Chờ trợ lực nhanh từ chính sách để hàng Việt phủ sóng những thị trường lớn
Để hàng Việt có thể 'phủ sóng' ở những thị trường lớn, bắt buộc phải có thêm trợ lực phù hợp từ khâu chính sách. Nhất là nhanh chóng thiết lập cơ sở pháp lý hỗ trợ rõ ràng với ngành công nghiệp Halal, thúc đẩy ngoại giao kinh tế, mở rộng thêm một số ưu đãi trong các FTA, đàm phán thêm quy tắc xuất xứ cộng gộp trong EVFTA, thúc đẩy ký FTA mới với các thị trường tiềm năng.
Một trong những thị trường lớn phải kể đến thị trường Halal (các quốc gia Hồi giáo) với quy mô nền kinh tế Halal toàn cầu dự kiến tăng lên khoảng 10.000 tỷ USD vào năm 2030 nhờ tăng trưởng quy mô dân số Hồi giáo. Tuy nhiên, để hàng Việt “phủ sóng” thị trường được ví như “kho báu” này thì còn rất nhiều việc để làm.
Từ khúc mắc ở ngành công nghiệp Halal
Chẳng hạn, để xuất khẩu (XK) hàng Việt vào Indonesia (thị trường Halal lớn nhất thế giới với hơn 280 triệu dân, trong đó phần lớn theo đạo Hồi), bà Nguyễn Thị Ngọc Hằng, Giám đốc Marketing Công ty TNHH Văn phòng Chứng nhận Halal (HCA), cho rằng BPJPH – Cơ quan Quản lý Bảo đảm Sản phẩm Halal Indonesia – yêu cầu hầu hết hàng hóa nhập khẩu và kinh doanh tại Indonesia phải có chứng nhận Halal.

Những khúc mắc trong ngành công nghiệp Halal rất cần nhanh chóng thiết lập cơ sở pháp lý hỗ trợ rõ ràng với doanh nghiệp Việt.
Theo bà Hằng, quy định do chính phủ Indonesia ban hành, lộ trình áp dụng dán nhãn cho các sản phẩm hoặc dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài sẽ do Bộ Tôn giáo Indonesia quy định (chậm nhất vào ngày 17/10/2026).
Vị giám đốc này cũng lưu ý quy trình chứng nhận bao gồm đánh giá hồ sơ, kiểm tra thực tế và cấp chứng nhận, với yêu cầu về giám sát viên Halal. Sau khi có chứng nhận, doanh nghiệp (DN) cần đăng ký trên hệ thống SIHALAL của Indonesia và tuân thủ quy định ghi nhãn.
Còn theo ông Trần Phú Lữ, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Tp.HCM (ITPC), các DN Việt cần đổi mới mô hình, tập trung vào thị trường tiềm năng như Halal (riêng tổng giá trị lĩnh vực thực phẩm và đồ uống dự kiến đạt 5,91 nghìn tỷ USD vào năm 2033) để mở rộng XK, đồng thời chủ động ứng phó với nguy cơ sụt giảm ở thị trường truyền thống.
Lẽ đương nhiên, để các DN tập trung vào các quốc gia tiềm năng trong thị trường Halal thì cần có sự tiếp sức kịp thời từ khâu chính sách trong việc thiết lập cơ sở pháp lý hỗ trợ rõ ràng nhằm đưa hàng Việt thâm nhập và mở rộng thị phần. Nhất là khi Việt Nam cùng một số quốc gia Hồi giáo đang đặt mục tiêu tăng kim ngạch thương mại song phương thời gian tới (Việt Nam – Malaysia phấn đấu tăng kim ngạch thương mại lên 18 tỷ USD, Việt Nam – Indonesia lên 18 tỷ USD vào năm 2028, Việt Nam – UAE lên 10 tỷ USD, Việt Nam – Thổ Nhĩ Kỳ lên 5 tỷ USD và Việt Nam – Iran lên 2 tỷ USD…).
Tuy nhiên, hiện tại, theo giới chuyên gia, Việt Nam chưa có một khung pháp lý thống nhất và đồng bộ để quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh và chứng nhận sản phẩm, dịch vụ theo tiêu chuẩn Halal. Điều này tạo ra những khó khăn, vướng mắc cho cả cơ quan quản lý nhà nước và DN trong việc phát triển ngành Halal.
Do đó, việc ban hành Nghị định quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal là hết sức cần thiết trong lúc này nhằm thiết lập cơ sở pháp lý rõ ràng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngành Halal tại Việt Nam, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và khai thác hiệu quả thị trường Halal toàn cầu đầy tiềm năng.
Nên nhắc lại, từ tháng 11/2024, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có tờ trình trình Thủ tướng Chính phủ đề nghị xây dựng Nghị định quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ Halal. Như vậy là đến nay đã được 9 tháng nhưng nghị định này vẫn đang “nằm trên giấy”.
Điều mong đợi của các DN là Nhà nước sẽ ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ và thúc đẩy ngành Halal phát triển. Các chính sách này bao gồm việc chủ động đàm phán, ký kết các thỏa thuận quốc tế để tạo thuận lợi thương mại hỗ trợ DN tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại quốc gia và quốc tế, cũng như hỗ trợ về nguồn lực.
Cụ thể, DN sẽ được hỗ trợ tiếp cận tín dụng ưu đãi, một phần chi phí tư vấn và chứng nhận Halal lần đầu, cũng như hỗ trợ nghiên cứu ứng dụng công nghệ và truy xuất nguồn gốc. Nhà nước cũng sẽ xây dựng và duy trì một cơ sở dữ liệu Halal quốc gia để cung cấp thông tin minh bạch cho DN và người tiêu dùng quốc tế.
Đến mở rộng thêm “cánh cửa” FTA
Ngoài khúc mắc ở ngành công nghiệp Halal, tại một hội nghị bàn về ngoại giao kinh tế diễn ra mới đây, ông Nguyễn Hoài Nam - Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep), cho rằng các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Chính phủ đã đàm phán và ký kết trong thời gian qua đã mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho ngành thủy sản, tuy nhiên trong các đợt rà soát FTA sắp tới, hiệp hội kỳ vọng có thể mở rộng thêm một số ưu đãi, đặc biệt liên quan đến các mặt hàng chủ lực.
Cụ thể, theo ông Nam, phía Vasep mong muốn FTA giữa Việt Nam với Hàn Quốc (VKFTA) có thể mở thêm hạn ngạch cho mặt hàng tôm và với EU là mở rộng hạn ngạch cho sản phẩm cá ngừ – những mặt hàng gắn liền trực tiếp với sinh kế của nông dân và ngư dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, để hàng Việt “phủ sóng” mạnh mẽ hơn ở thị trường “xịn” như EU, gần đây có hiệp hội DN còn đề nghị Bộ Công Thương nghiên cứu đàm phán thêm Quy tắc xuất xứ cộng gộp (cumulation) giữa các nước có FTA với EU. Chẳng hạn nguyên liệu của Hàn Quốc cộng với sản xuất tại Việt Nam thì được hưởng FTA vì Việt Nam có FTA với EU (EVFTA) và Hàn Quốc có FTA với EU.
Bởi lẽ, Quy tắc xuất xứ cộng gộp trong EVFTA hiện cho phép sử dụng nguyên liệu từ một số nước có FTA với EU (như Hàn Quốc, Nhật Bản) để đáp ứng tiêu chí xuất xứ. Ví dụ nhóm hàng dệt may được cộng gộp nguyên liệu từ Hàn Quốc, Nhật Bản, hoặc nhóm thủy sản được sử dụng mực, bạch tuộc từ ASEAN.
Các nước có FTA với EU như Hàn Quốc và Nhật Bản đã tận dụng xuất xứ cộng gộp để tối ưu hóa chuỗi cung ứng và tăng khả năng cạnh tranh tại thị trường EU. Trong khi đó, Việt Nam cũng có FTA với Hàn Quốc (VKFTA) và FTA với Nhật Bản (VJEPA), tạo cơ hội hợp tác chuỗi cung ứng.
Tuy nhiên, Quy tắc xuất xứ cộng gộp trong EVFTA còn hạn chế về phạm vi (chỉ áp dụng cho một số nhóm hàng và đối tác nhất định) và yêu cầu tỷ lệ nguyên liệu ngoài khối không quá 10%. Điều này làm giảm cơ hội tận dụng ưu đãi thuế quan, cho nên rất cần thúc đẩy đàm phán thêm Quy tắc xuất xứ cộng gộp để các DN Việt tận dụng.
Ngoài ra, bên cạnh việc khai thác hiệu quả 17 FTA mà Việt Nam đã ký kết, để những thị trường “xịn” đón nhận hàng Việt rất cần mở rộng thêm “cánh cửa” FTA bằng cách thúc đẩy ký các FTA mới với các thị trường tiềm năng như Trung Đông, Trung Á, Ấn Độ, Brazil…Đơn cử như cần sớm kết thúc đàm phán FTA với MERCOSUR (thị trường chung Nam Mỹ), Brazil để tiến đến ký kết và thực thi. Ngoài ra, nên nhanh chóng khởi động đàm phán FTA với Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh (GCC).