Chọn sản xuất 'nương theo' tự nhiên để bền vững
Điều kiện sản xuất nông nghiệp đã có sự thay đổi dưới tác động của những yếu tố tiêu cực như biến đổi khí hậu nên việc chuyển đổi mô hình để thích ứng là tất yếu. Đây là nền tảng cho một giai đoạn sản xuất mới với những thay đổi ngày càng rõ nét hơn.

Mô hình "2 lúa - 1 cá" giúp trữ cá mùa lũ ở tỉnh Đồng Tháp. Ảnh: K.A
Dự án chống chịu biến đổi khí hậu và sinh kế bền vững Đồng bằng sông Cửu Long (gọi tắt là WB9) được triển khai ở 9 địa phương trong vùng, gồm An Giang, Đồng Tháp, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang đã từng bước cụ thể hóa các mô hình sản xuất bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu, các yếu tố bất lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp ngày càng lớn.
Chuyển từ “chống chọi” sang “thuận thiên”
Vào những năm 2010-2011, phong trào xây dựng đê bao chống lũ, phát triển lúa vụ 3 ở nhiều địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được triển khai rầm rộ, trong đó, trọng điểm hai địa phương đầu nguồn là An Giang và Đồng Tháp với hàng ngàn héc ta vùng đê bao được hình thành.
Trái ngược với cảnh vui mừng vì trúng mùa trong những năm đầu triển khai lúa vụ 3, tình hình kéo dài sản xuất ba vụ lúa mỗi năm ở ĐBSCL ngày càng khiến đất đai bị bạc màu (vì không được tiếp nhận phù sa); chi phí đầu tư, dịch bệnh gia tăng khiến năng suất giảm, dẫn đến thua lỗ thường xuyên hơn.
Từ thực trạng nêu trên, WB9 được triển khai từ năm 2016 với quan điểm tiếp cận trong sản xuất nông nghiệp ĐBSCL theo hướng “thích ứng”, tức thay vì “chống chọi” với thiên nhiên (đê bao sản xuất lúa vụ 3 hay ba vụ lúa mỗi năm), thì chuyển sang “thuận thiên” (bỏ lúa vụ 3, xả lũ trở lại).
Bà Mariam J. Sherman, Giám đốc quốc gia Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam, Lào và Campuchia tại hội thảo tổng kết WB9 diễn ra mới đây ở thành phố Cần Thơ, nhấn mạnh hướng tiếp cận từ "chống" chuyển sang "nương theo" tự nhiên là quan điểm đột phá của dự án. “Đây là tầm nhìn đi trước cả Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu vào năm 2017”, bà nhấn mạnh.
Tầm nhìn nêu trên đã được cụ thể hóa thông qua khoảng 900 mô hình, mang lại kết quả tích cực, đóng góp quan trọng làm thay đổi nhận thức và chuyển biến rõ nét trong thực tế đồng ruộng.
Trao đổi với KTSG Online, ông Đặng Văn Bé, ngụ ấp Giồng Bàng, xã Thường Phước 1, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, một trong 65 thành viên tham gia mô hình trữ cá cộng đồng mùa lũ ấp Giồng Bàng, cho biết dưới sự hỗ trợ WB9, nông dân chuyển đổi từ sản xuất 3 vụ lúa sang “2 lúa - 1 cá mùa lũ”.
Với quy mô diện tích 100 héc ta, vụ thu hoạch cá mùa lũ gần nhất vào năm 2024, sau khi trừ đi tất chi phí, mỗi thành viên tham gia mô hình đạt lợi nhuận 2,04 triệu đồng.
Lợi nhuận không quá lớn, nhưng vấn đề quan trọng hơn, đó là ruộng đồng được bồi đắp phù sa, rửa trôi các loại hóa chất, sâu bệnh nên chi phí đầu tư vụ lúa tiếp theo giảm đáng kể. “Đây là yếu tố có ý nghĩa rất lớn mà mô hình đã mang lại”, ông Bé nói.
Còn ông Nguyễn Văn Út Nhỏ, cán bộ thực hiện dự án ở huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp khi trao đổi với KTSG Online, cho biết địa phương có 3.060 héc ta diện tích tham gia mô hình lúa - màu và màu - cá.
Theo đó, thông qua các gói biện pháp kỹ thuật mô hình sinh kế của WB9 đã giúp lợi nhuận nông dân tăng cao hơn ít nhất 30% so với bên ngoài. “Với mô hình “2 màu - 1 cá mùa lũ”, riêng với cây đậu nành (màu) nông dân lời ít nhất 50 triệu đồng/héc ta/vụ”, ông Út Nhỏ dẫn chứng.
Ý nghĩa quan trọng hơn đối với mô hình nêu trên, nông dân đã ý thức hơn trong việc hạn chế số lượng sử dụng thuốc bảo vệ thực vật và chỉ sử dụng thuốc sinh học để đảm bảo không ảnh hưởng đến cá.
Theo ông Huỳnh Minh Đường, Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, địa phương có 20.000 héc ta diện tích sản xuất nông nghiệp thực hiện các biện pháp quản lý đất và nước chống chịu biến đổi khí hậu, vượt 4% so với kế hoạch mục tiêu dự án giao.
Riêng đối với mô hình sinh kế, ông Đường, cho biết đều mang lại kết quả tích cực, trong đó, riêng mô hình 2 lúa - 1 cá, nông dân dân tham gia đạt tổng lợi nhuận bình quân gần 51 triệu đồng/héc ta, cao hơn 21 triệu đồng so với phương thức canh tác truyền thống. “Đây là minh chứng rõ nét mà dự án đã đạt được trong chuyển đổi mô hình sinh kế, giúp cho người dân có cuộc sống và nguồn thu nhập cao hơn”, ông nhấn mạnh.

Kết quả WB9 là nền tảng để mở rộng mô hình thích ứng với tự nhiên trong giai đoạn tới. Ảnh: K.A
Nền tảng phát triển cho giai đoạn mới
Từ tín hiệu tích cực của những mô hình sinh kế mà WB9 đã mang lại, ông Đường của Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, nhấn mạnh địa phương đã cho triển khai mở rộng ở nhiều khu vực trên địa bàn tỉnh.
Cụ thể, sau khi WB9 kết thúc, cuối năm 2024 vừa qua, địa phương đã mở rộng thêm 2.000 héc ta mô hình trữ cá mùa lũ. “Sau khi trừ đi các khoản chi phí liên quan, mô hình trữ cá mùa lũ giúp mang lại cho nông dân lợi nhuận khoảng 1,5 triệu đồng/héc ta”, ông Đường cho biết.
Điều quan trọng hơn, nông dân đã biết tận dụng mô hình trữ cá mùa lũ để phát triển thêm du lịch sinh thái cộng đồng. Trong đó, mùa lũ 2024, Đồng Tháp có nhiều điểm thu hút khách du lịch cộng đồng mùa lũ trong vùng dự án WB9.
Một điểm quan trọng hơn, đó là việc sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu của người dân giảm đáng kể ở vụ mùa sản xuất tiếp theo bởi đồng ruộng được bổ sung lượng lớn phù sa khi được xả lũ. “Đây là hướng sản xuất thuận thiên, ít tác động môi trường sẽ được chú trọng thời gian tới”, ông Đường cho biết.
Bà Phạm Thị Hồng Thúy, đến từ Chi cục trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh An Giang, đánh giá nông dân đã thay đổi tập quán canh tác khi giảm sử dụng thuốc, chọn canh tác an toàn. “Đây cũng là tiền đề mở rộng khi triển khai đề án 1 triệu héc ta lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở An Giang hiện nay”, bà nhấn mạnh và nói rằng, các vùng chuyển đổi của địa phương đã có sự cải tiến đáng kể.
Kết quả nêu trên cũng là căn cứ để triển khai WB11, tức dự án chống chịu biến đổi khí hậu và chuyển đổi tổng hợp vùng ĐBSCL giai đoạn 2025-2033.
Theo đó, WB11 kỳ vọng sẽ mở rộng diện tích chuyển đổi sang các mô hình canh tác bền vững thích ứng biến đổi khí hậu với tổng diện tích ở ĐBSCL là khoảng 300.000 héc ta; diện tích hưởng lợi khoảng 600.000 héc ta, với khoảng 3 triệu người được hưởng lợi trực tiếp. Đồng thời, dự án sẽ xây dựng hệ thống thông tin quản lý rủi ro thiên tai cho ĐBSCL, áp dụng chuyển đổi số và thúc đẩy phát triển chuỗi giá trị ngành nông nghiệp.
Ông Nguyễn Hoàng Hiệp, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, WB9 thành công nhưng chỉ một phần, trong khi thách thức cho ĐBSCL vẫn rất lớn, nhất là khi khu vực thượng nguồn sẽ phát triển lên đến 110 tỉ m3 thủy điện (hiện là khoảng 60 tỉ m3).
Từ vấn đề nêu trên, theo ông Hiệp, câu chuyện của ĐBSCL là cần một giải pháp tổng hợp, chứ không thể giải quyết riêng lẻ từng vấn đề như: nông nghiệp, kinh tế, xâm nhập mặn, sụt lún và ngập úng. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường kỳ vọng, WB11 sẽ kế thừa kết quả WB9 tiếp tục giúp ĐBSCL phát triển thuận thiên, thích nghi có kiểm soát.
Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/chon-san-xuat-nuong-theo-tu-nhien-de-ben-vung/