Chống đầu cơ vàng năm 1946
Một sắc lệnh được ký, là biện pháp tài chính - kinh tế cấp bách của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhằm bảo vệ nền kinh tế non trẻ và củng cố chủ quyền tài chính quốc gia trong giai đoạn đầu độc lập.

Sắc lệnh số 202 ngày 15/10/1946. Nguồn: Trung tâm lưu trữ Quốc gia III.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời, nền tài chính quốc gia chưa mạnh, dự trữ vàng bạc ít ỏi, trong khi tình hình chính trị - kinh tế cực kỳ khó khăn, chiến tranh đang đe dọa, ngoại tệ, vật tư khan hiếm.
Bài trừ sự đầu cơ tiền tệ bằng kim khí
Trong bối cảnh ấy, việc tự do buôn bán và xuất cảng vàng bạc có nguy cơ: Làm thất thoát tài sản quý ra nước ngoài, khiến quốc gia mất nguồn dự trữ kim loại quý; Gây đầu cơ, tích trữ, thao túng giá cả, làm giá đồng bạc biến động, ảnh hưởng xấu đến ổn định tiền tệ và kinh tế trong nước; Làm suy yếu khả năng tài chính của chính quyền non trẻ.
Đứng trước tình hình đó, ngày 15/10/1946, chiểu theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính; sau khi đã hỏi ý kiến Ban thường trực Quốc hội và Hội đồng Chính phủ đã thỏa hiệp, Quyền Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng (cụ Huỳnh Thúc Kháng được giao chức vụ Quyền Chủ tịch Chính phủ từ ngày 31/5/1946-20/10/1946 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Pháp) đã ký sắc lệnh số 202 quy định nghiêm ngặt việc buôn bán, chuyên chở và xuất khẩu vàng bạc.

Thông cáo của Bộ Tài chính trên Báo Cứu quốc số 397, ra ngày 6/11/1946.
Báo Cứu quốc số Số 397, ra ngày 6/11/1946 có đăng Thông cáo của Bộ Tài chính Việt Nam về việc buôn bán chuyên chở, xuất cảng Vàng và Bạc cho biết: “Sắc lệnh này có mục đích:
1) Bài trừ sự xuất cảng vàng bạc để giữ cho tài sản quý giá trong nước khỏi hao mòn đi. Muốn đạt mục đích đó, cần phải kiểm soát việc buôn bán và chuyên chở. Buôn bán đấy chỉ những người buôn bán để kiếm lời làm kế sinh nhai. Chỉ những người đó mới phải kiểm soát theo sắc lệnh.
Còn những tư nhân, một đôi khi cần đến, phải để lại cho nhau đồ vàng bạc, thì những hành vi lề lối và hãn hữu đó không thể coi là việc sự buôn bán phải bài trừ. Vậy những tư nhân có quyền để lại cho nhau bất cứ số vàng bạc bao nhiêu không phải bắt buộc xin phép đặc biệt.
2) Bài trừ sự đầu cơ tiền tệ bằng kim khí vì hành vi đó có ảnh hưởng không hay cho giá đồng bạc”.

Để bảo vệ tài sản quốc gia, ổn định tiền tệ, một sắc lệnh đã được ký, quy định rõ việc buôn bán, xuất khẩu vàng bạc. Ảnh minh họa. Nguồn: Reuters.
Bảo vệ tài sản quốc gia, ổn định tiền tệ
Theo tài liệu lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III thuộc Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Sắc lệnh 202 gồm 2 Tiết, 10 điều, nội dung chính như sau:
Về việc buôn bán vàng, Sắc lệnh quy định:
- Cấm xuất khẩu vàng, bạc nếu không được phép của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
- Quản lý chặt việc chuyên chở vàng bạc giữa các địa phương: Chỉ có thể chuyên chở từ địa hạt này qua địa hạt khác (thành phố, tỉnh, thị xã) một số đồ vàng (đồ trang sức hay mỹ nghệ), bất luận bao nhiêu tuổi, không quá một lạng tây (100 grammes). Quá số đó, phải xin phép UBHC tỉnh, thị xã hay thành phố mình ở.
- Chỉ nhà buôn có giấy phép mới được kinh doanh vàng: Những nhà buôn được phép mua hay bán vàng, bắt buộc, ngoài những sổ sách thương mại thường có, phải giữ hai quyển sổ đúng như mẫu kèm theo Sắc lệnh này (bản phụ thuộc 1 và 2).
1) Quyển thứ nhất để ghi những việc mua vàng;
2) Quyển thứ hai để ghi những việc bán vàng.
Mỗi khi mua, bán phải ghi dần vào những sổ đó, không được bỏ trống hay viết len vào giữa hai dòng. Những sổ đó làm bằng giấy thường, có đánh số trang, từ trang đầu đến trang cuối và mỗi trang phải có chữ ký của nhà chức trách y như những sổ sách thương mại nói trên, và phải đưa trình nhà chức trách mỗi khi hỏi đến. Các sự sửa chữa phải do cước chú riêng ở dưới, cả hai bên mua bán đều ký hay điểm chỉ nhận và phải viết bằng mực đỏ.
- Phạt nặng hành vi gian lậu - phạt tiền gấp 3 lần, tù từ 6 ngày đến 5 năm. Tịch thu toàn bộ vàng, bạc gian lậu hoặc định gian lậu.
Về việc buôn bán bạc, Sắc lệnh quy định:
- Nếu không được Bộ Tài chính cho phép, cấm hoàn toàn các việc: Xuất cảng bạc (bạc nén, bạc thoi, bạc vụn, tiền bạc, đồ bạc); Mua bán tiền tệ trong nước vượt quá giá pháp định; Mối lái, tập trung bạc để đầu cơ hoặc bán cho người ngoại quốc.
- Cho phép chuyên chở đồ bạc trang sức, mỹ nghệ trong nước dưới 1 kilogam, không cần xin phép. Trên mức đó, hoặc bạc thoi, bạc vụn, bạc kỹ nghệ, đều phải xin phép Ủy ban Hành chính địa phương. Ủy ban có quyền xét mục đích vận chuyển để chống đầu cơ, buôn lậu.
- Phạt nặng hành vi gian lậu: Phạt tiền: gấp 3 lần giá trị bạc gian lậu hoặc định gian lậu; Phạt tù: từ 6 ngày đến 6 tháng (tái phạm: 2 tháng đến 2 năm); Bạc gian lậu bị tịch thu.
Tóm lại, Sắc lệnh số 202 do Quyền Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Huỳnh Thúc Kháng ký ngày 15/10/1946 là một văn bản kinh tế - tài chính quan trọng trong giai đoạn đầu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ.
Sắc lệnh không chỉ có tác dụng bảo vệ tài sản quốc gia, ổn định tiền tệ, củng cố chính quyền, mà còn tạo khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho việc quản lý vàng bạc. Đây cũng là bước khởi đầu quan trọng trong quá trình xây dựng hệ thống tài chính của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Nguồn Znews: https://znews.vn/chong-dau-co-vang-nam-1946-post1594770.html