Chu đồng là cây dâu tằm, không phải dâu da!?

Nơi phát tích 'Đẻ đất đẻ nước' được cho là ở xã Thiết Ống (Bá Thước - Thanh Hóa), hiện vẫn còn dấu vết ở Đồi Chu. Theo nhiều nghiên cứu, các nhân vật, sự kiện được kể gần như trùng khớp với huyền sử thời Hùng Vương. Phải chăng bộ sử thi vĩ đại này là sự sáng tạo không chỉ của người Mường, mà của người Việt cổ nói chung (!?). Kiệt tác có các roóng (chương) nói về 'Đẻ đất đẻ nước', 'Đẻ trứng Điếng', 'Xin lửa', 'Làm nhà', 'Hỏi vợ', 'Trồng dâu nuôi tằm'…

Trong sử thi cổ đại nói chung thường xuất hiện hình tượng cây thế giới/cây vũ trụ/cây sự sống chứa đựng rất nhiều mã ký gửi những ý nghĩa chờ đợi được lý giải. Trường hợp cây Chu đồng thần kỳ trong "Đẻ đất đẻ nước" là tiêu biểu.

Kể rằng: Ngày xưa dưới đất chưa có đất, trên trời chưa có trời. Có một năm mưa dầm mưa dãi. Nước rút, mọc lên một cây có 90 cành. Những cành trên cùng có ông Thu Tha, bà Thu Thiên. Ông bà tạo ra cây cỏ và các loài tôm cá. Đó là Đẻ Đất. Rồi hạn chín tháng trời, nắng mười hai năm. Ông Pồng Pêu (thần nước) cầu mưa. Thế là Đẻ Nước…

Là biểu tượng đặc biệt của tác phẩm, cây Chu đồng có thân đồng, cành vàng, bông thau, quả thiếc, chung quanh có cọp, lợn lòi, hươu, phượng hoàng đứng chầu. Trước nay cây được hiểu là cây dâu da - quả chua, ăn được, mọc hoang trong rừng. Theo tiếng Mường cổ, thì “chu” là to lớn, là chủ, là chúa; “đồng” chỉ kim loại. “Chu đồng” còn có thể hiểu là cây chúa của đồng (!?).

Núi Cột Cờ (Mường Bi - Hòa Bình) kết hợp với cây dâu tằm kết thành hình tượng cây Chu đồng?

Núi Cột Cờ (Mường Bi - Hòa Bình) kết hợp với cây dâu tằm kết thành hình tượng cây Chu đồng?

Năm 1986, giới khảo cổ tìm thấy trong văn hóa Tam Tinh Đôi (Tứ Xuyên - Trung Quốc) một cây thiêng bằng đồng cao 3,96 mét, gốc và thân cây chia ba tầng, mỗi tầng ba nhánh. Trên mỗi cành có một con chim thiêng. Liệu có liên quan gì đến cây Chu đồng trong "Đẻ đất đẻ nước"?

Vải vóc ra đời là một bước tiến nhảy vọt của văn minh nhân loại. Để tạo ra vải tất phải nuôi tằm, tất phải có cây dâu. Đương nhiên cây dâu trở thành cây thiêng, đến mức trở thành ẩn dụ cho thời thế, thời đại (cuộc bể dâu/dâu bể). Triều đại Hán(206 TCN - 220 SCN) đóng góp cho nhân loại “con đường tơ lụa” nối Trung Quốc với phương Tây, không chỉ trao đổi hàng hóa, còn trao đổi văn hóa, công nghệ, kiến thức, nhất là nghề nuôi tằm dệt vải… Tơ lụa trở thành biểu tượng của quyền lực, sang trọng và giàu có.

Trong sách Sơn Hải kinh (sách địa chí Trung Quốc thế kỷ 4 TCN) tập hợp những truyện ly kỳ về núi và biển, có nói đến cây dâu thần fusang (phù tang) ở ngoài Đông Hải, nơi mặt trời mọc. Phải chăng Nhật Bản có tên gọi khác là Phù Tang có nguồn gốc từ những truyền thuyết này? Có truyện cổ Trung Hoa kể về mười con chim (quạ) sống trên cây phù tang gần gũi với truyền thuyết Hậu Nghệ bắn hạ chín mặt trời.

Cũng nhiều truyền thuyết Trung Hoa kể cây dâu là nơi ở của Mẹ các mặt trời. Bắt đầu từ nơi Mẹ không tang (cây dâu rỗng) Hoàng Đế bước theo mặt trời được cầm nhịp bằng tiếng gõ vào cái hòm gỗ dâu. Lại kể Hoàng hậu Lôi Chấn, vợ Hoàng Đế (2697 - 2597 TCN) ngồi dưới tán cây dâu vô tình nhìn thấy ổ kén và con tằm (?). Theo cổ sử, nghề nuôi tằm bằng lá dâu có ở Trung Hoa cách đây 5.000 năm. Thời đó, trong các nghi lễ ma thuật thường lấy cung nỏ làm bằng gỗ dâu để “bắn” tà ma.

Phải chăng cây Chu đồng chính là cây dâu tằm có trước nhất ở xứ ta, theo con đường tiếp biến ngược lên phương Bắc rồi mọc lên thành một trong những cây thế giới/cây sự sống của văn minh Trung Hoa cổ. Điều này “khớp” với sách "Hoàng đế nội kinh" của chính người Trung Quốc khẳng định người phương Bắc đã tiếp thu nghề trồng dâu nuôi tằm của người phương Nam.

Chùm "Truyện Man Nương" của ta kể, thời Sĩ Nhiếp, có người con gái đẹp tên A Man theo học Phật pháp. Ngày nọ nàng ngủ quên trước cổng chùa, sư Khâu Đà La đi về không nỡ đánh thức bèn bước qua người. Man Nương có thai sinh ra được một bé gái. Sư Khâu Đà La đặt đứa bé vào trong thân cây dâu rồi đưa cho Man Nương một cây trượng, dặn khi nào hạn hán thì cắm xuống đất. Đến năm đại hạn, Man Nương làm theo lời dặn thì nước tuôn ra xối xả. Dân chặt cây dâu có đứa bé bên trong chỉ thấy một khối đá, liền lấy đá tạc bốn pho tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện chia cho bốn chùa để thờ cầu mưa. Về sau dân gọi Man Nương là “Phật Mẫu” (mẹ của Phật). Hàng năm, nhớ ngày Mẫu mất, dân mở hội.

Truyền thuyết khác kể, một lần cây dâu bị gió quật đổ xuống sông Thiên Đức (sông Dâu) rồi trôi về Luy Lâu. Quân lính Sĩ Nhiếp định vớt lên để làm nóc điện, nhưng không chuyển nổi. Man Nương xuống sông, buộc dải yếm vào cây và bảo “Phải con mẹ thì theo!”, lập tức kéo cây lên dễ dàng. Sĩ Nhiếp thấy thế kính sợ, tuyển thợ tạc tượng Tứ pháp là Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện tượng trưng cho Mây, Mưa, Sấm, Chớp, đặt ở bốn ngôi chùa: Chùa Dâu, Chùa Đậu, Chùa Dàn, Chùa Tướng.

Khi tạc tượng, gặp trong thân cây một khối đá, thợ bèn vứt xuống sông. Đến đêm thấy lòng sông rực sáng, Sĩ Nhiếp cho người xuống vớt nhưng không tài nào vớt được. Man Nương đi thuyền ra giữa sông thì khối đá tự nhiên nhảy vào thuyền. Khối đá ấy về sau được gọi là Thạch Quang Phật (Phật đá tỏa sáng). Như vậy dân gian đã gửi linh hồn Phật vào trong thân cây dâu!

Cây đồng thiêng ở Tam Tinh Đôi.

Cây đồng thiêng ở Tam Tinh Đôi.

"Đẻ đất đẻ nước" có chi tiết gần giống "Truyện Man Nương": lưỡi rìu to bằng tấm ván thuyền để chặt cây Chu đồng mà cây không đổ, vết chặt hôm sau tự nhiên lành lại. Phải lấy máu của Tặm Tạch (thợ săn thần kỳ) bôi vào rìu mới chặt được. Cây đổ nhưng không thể chuyển, phải lấy xương của Tặm Tạch làm đòn bẩy, làm đà trượt để đưa cây ra sông Mã về xuôi.

Hạt giống từ bi Phật giáo được gieo vào mảnh đất tôn thờ, kính trọng người nữ của dân gian Việt lớn lên thành cây tín ngưỡng thờ Mẫu. Những phụ nữ nết na, hay lam hay làm (nghề tằm tang) được “Phật hóa” thành những vị Phật Bà giúp dân, giúp nước. Trong lịch sử, có Hoàng thái hậu Ỷ Lan - một thôn nữ làng Thổ Lỗi đi hái dâu, được vua Lý Thánh Tông đón vào cung lập làm phu nhân. Lại có Bà chúa Tằm tang Đoàn Thị Ngọc kết duyên với chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan. Từ một cô gái miệt mài nơi bãi mía nương dâu, trở thành Hiếu Chiêu Hoàng Hậu, bà khuyến khích nông phu Điện Bàn, Thăng Hoa mở mang nghề nuôi tằm dệt lụa.

Trong tiếng Hán, cây dâu đọc là tang, đồng âm với tiếng Việt là tang tóc. Được cho là mang âm khí mạnh nên không trồng trước nhà. Dân gian lấy thân cây dâu làm vòng gỗ đeo cho trẻ nhỏ, người già. Người hay mê sảng đặt vòng gỗ dâu ở đầu giường. Thầy pháp, thầy cúng dùng roi dâu để đánh đuổi tà ma. Nhà có sản phụ thì treo vòng lá dâu ở cửa để tránh tà ma quấy nhiễu… Rõ ràng, cây dâu là cây thiêng trong văn hóa Việt!

Không chỉ tạo ra tơ lụa, thân thuộc với con người, “thiêng” trong đời sống tâm linh, cây dâu tằm còn có giá trị kinh tế và y học chữa trị nhiều thứ bệnh nên được gọi là “tiên dược”. Lá dâu vị ngọt, hơi đắng, tính hàn, có tác dụng bổ phổi, thanh lọc gan. Trong "Nam dược thần hiệu" và "Hồng nghĩa giác tư y thư", Danh y Tuệ Tĩnh - ông Tổ thuốc Nam, cũng ghi rõ các thành phần của cây dâu, từ thân, vỏ, rễ, lá, cành dâu, thậm chí các loại sâu của cây dâu cũng đều có thể làm thuốc quý.

Trong "Truyện Man Nương" có chi tiết “đặt (người) vào cây”. "Đẻ đất đẻ nước" cũng có chi tiết tương tự. Khi Dịt Dàng cất binh đánh Đạo Cun Tre Nghè Tróng. Đạo Cun liền trốn vào cây Chu đồng… Thần thoại Nhật kể thần Mặt Trời “ngự” trong gốc rỗng của cây dâu trước khi cưỡi xe lửa đi trên trời từ Đông sang Tây, nên Nhật Bản còn có tên gọi Phù Tang. Như vậy, có môtíp “người trong cây (dâu)” trong văn hóa châu Á!?

Xin nói thêm cây dâu tằm ngoài đời cao khoảng 4,5 mét, cùng độ cao của cây đồng thiêng ở Tam Tinh Đôi. Trong thực tế, cây dâu da rừng cổ thụ thì khác, to lớn, vào mùa hè quả sum suê, lúc lỉu. Lại thêm Bá Thước - nơi sinh ra "Đẻ đất đẻ nước", đến nay vẫn còn giữ nghề dệt thổ cẩm nổi tiếng, hẳn nhiên gắn liền với cây dâu tằm… Do vậy nên hiểu cây Chu đồng trong "Đẻ đất đẻ nước" là cây dâu tằm, không phải cây dâu da rừng ít giá trị, ít ý nghĩa, do vậy không phải cây thiêng?

Phải chăng cây dâu tằm xứ Việt, được ánh xạ bởi nền văn minh trống đồng đã kết thành cây thiêng đồng Tam Tinh Đôi? Theo dòng chảy giao lưu, cây ngược lên phương Bắc tươi tốt ở đồng bằng văn minh Trung Hoa tạo ra nền văn hóa tơ lụa quý giá, được “thiêng hóa” ký gửi những mã văn hóa đầy thách thức?

Nguyễn Thanh Tú

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/doi-song-van-hoa/chu-dong-la-cay-dau-tam-khong-phai-dau-da--i762569/