Chưa có khung pháp lý, Việt Nam thiếu sức hút đầu tư vào tiền kỹ thuật số

Nhìn từ góc độ phát triển khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số, Việt Nam đang bị bỏ lại khá xa so với nhiều quốc gia trên thế giới và trong khu vực, mặc dù Việt Nam có số người dân sở hữu và sử dụng tài sản số rất lớn.

Tại buổi làm việc với Ban Chính sách, chiến lược trung ương chiều 24-2, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh, không để chậm chân, không để mất cơ hội liên quan đến tiền kỹ thuật số (KTS).

Mới đây nhất, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Đức Chi cho biết trong tháng 3 cơ quan này sẽ báo cáo Chính phủ khung pháp lý về tiền kỹ số, trong đó cho phép thí điểm sàn giao dịch loại tiền này. Bộ Tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước đang nghiên cứu pháp lý về quản lý tài sản số, tiền số. Các bộ phải đưa ra khung pháp lý này trong tháng 3, theo yêu cầu của Thủ tướng Phạm Minh Chính.

Trả lời phỏng vấn của PLO, TS Phạm Đức Anh - Tiến sỹ ngành Kinh tế, Tài chính – Ngân hàng, Học viện Ngân hàng, khẳng định Việt Nam cần nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến tiền kỹ thuật số để không chậm chân hơn nữa trong việc thu hút tiền đầu tư vào tài sản này.

 TS. Phạm Đức Anh - Tiến sỹ ngành Kinh tế, Tài chính – Ngân hàng, Học viện Ngân hàng - Ảnh: NVCC

TS. Phạm Đức Anh - Tiến sỹ ngành Kinh tế, Tài chính – Ngân hàng, Học viện Ngân hàng - Ảnh: NVCC

Singapore, Thái Lan, Philippines đã khung pháp lý từ lâu

.Phóng viên: So với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam có phải đã chậm chân trong việc quản lý tiền kỹ thuật số?

+ TS. Phạm Đức Anh: Khi so sánh với các nước trong khu vực Đông Nam Á, chúng ta đã chậm chân đáng kể. Singapore đã ban hành Đạo luật Dịch vụ Thanh toán từ năm 2019, quy định rõ về cấp phép và giám sát các dịch vụ tiền kỹ thuật số. Thái Lan áp dụng khung pháp lý toàn diện cho tài sản kỹ thuật số từ năm 2018 thông qua Đạo luật Kinh doanh Tài sản Kỹ thuật số, quy định về ICO, sàn giao dịch, và môi giới tiền kỹ thuật số.

Philippines đã xây dựng khung quản lý về "Virtual Currency Exchange" từ năm 2017. Trong khi đó, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn nghiên cứu và chưa có khung pháp lý cụ thể, mặc dù chúng ta có lượng người dùng tiền kỹ thuật số lớn nhất khu vực.

Còn so với các nền kinh tế phát triển, chúng ta thậm chí còn tụt hậu hơn nữa. Ví dụ, tại Nhật Bản, kể từ năm 2017, Bitcoin đã được công nhận là một tài sản ảo theo Luật Dịch vụ Thanh toán của nước này, và được chấp nhận rộng rãi trong các giao dịch thanh toán của khối doanh nghiệp. Cùng với đó, các sàn giao dịch tiền điện tử cũng được phép hoạt động, song phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt của Cơ quan Dịch vụ Tài chính (FSA).

Hàn Quốc áp dụng khung pháp lý toàn diện từ năm 2021 với Đạo luật về Báo cáo và Sử dụng Thông tin Giao dịch Tài chính Cụ thể. Mỹ, mặc dù chưa có luật liên bang thống nhất, nhưng các cơ quan như SEC, CFTC đã có những quy định cụ thể và đang tích cực quản lý thị trường từ nhiều năm trước.

Trong lĩnh vực tiền kỹ thuật số của ngân hàng trung ương (CBDC), chúng ta cũng không phải là quốc gia đi đầu. Trung Quốc đã phát triển Nhân dân tệ số (e-CNY) từ năm 2020 và đã thử nghiệm tại nhiều thành phố lớn. Thậm chí trong khu vực, Campuchia đã triển khai Bakong (một hình thức CBDC) từ năm 2020. Các nước khác như Bahamas, Nigeria đã chính thức triển khai CBDC, trong khi nhiều nước khác đang trong giai đoạn thử nghiệm. Tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước mới chỉ đang trong giai đoạn nghiên cứu sơ bộ.

. Bây giờ Việt Nam mới khởi động xây dựng khung pháp lý liệu có muộn?

+ Sự chậm trễ của Việt Nam còn thể hiện ở cách tiếp cận với các mô hình kinh doanh mới như DeFi, NFT, hay metaverse. Trong khi các nước như UAE (đặc biệt là Dubai) đã xây dựng khuôn khổ quản lý cho các tài sản ảo, metaverse, và thậm chí thành lập cơ quan quản lý riêng; các nước như Hồng Kông đã phát triển "Vườn ươm Giám sát Công nghệ Sổ cái Phân tán" thì Việt Nam vẫn chưa có định hướng cụ thể cho các lĩnh vực này.

Điều đáng quan ngại hơn là sự chậm trễ này đang diễn ra trong bối cảnh Việt Nam có một cộng đồng người dùng tài sản số rất lớn. Theo số liệu của Chainalysis trong quý III-2024, Việt Nam có khoảng 18-20 triệu người sở hữu tài sản số, tương đương 1/5 dân số, đứng trong top đầu thế giới về tỷ lệ chấp nhận tài sản số. Điều này cho thấy có một khoảng cách lớn giữa thực tiễn thị trường và khung pháp lý.

Tuy nhiên, việc nhận diện rằng chúng ta đã chậm chân không có nghĩa là mọi thứ đã quá muộn. Ngược lại, Việt Nam vẫn có cơ hội để học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, tránh những sai lầm họ đã mắc phải, và xây dựng một khung pháp lý phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Điều quan trọng là chúng ta cần hành động nhanh chóng và quyết liệt, như chỉ đạo gần đây của Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ.

Thiếu khung pháp lý khiến doanh nghiệp gặp khó

.Theo quan điểm của chuyên gia, nếu chậm chân trong việc đưa ra khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số, Việt Nam có thể gặp phải những rủi ro nào?

+ Khi xem xét các rủi ro mà Việt Nam có thể đối mặt nếu chậm trễ trong việc xây dựng khung pháp lý cho tiền kỹ thuật số, tôi cho rằng có năm rủi ro quan trọng nhất cần được nhấn mạnh.

Thứ nhất, Việt Nam sẽ đối mặt với nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua phát triển kinh tế số toàn cầu.

Trong khi các quốc gia như Singapore, Thái Lan hay Nhật Bản đã thiết lập khung pháp lý từ 2018-2019, việc chậm trễ của Việt Nam đang làm giảm khả năng cạnh tranh và thu hút các dự án đầu tư lớn về blockchain và tài sản số. Các nhà đầu tư quốc tế thường ưu tiên những thị trường có khung pháp lý rõ ràng để đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh của họ.

Thứ hai là rủi ro về thất thu thuế và tài chính công. Với khoảng 18-20 triệu người Việt Nam sở hữu tài sản số và lượng giao dịch tiền kỹ thuật số lên đến hơn 105 tỉ USD trong năm 2024, đây là nguồn thu tiềm năng rất lớn đang nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà nước. Khi không có khung pháp lý, các giao dịch này diễn ra không chính thức, không đóng góp vào ngân sách và tạo ra khoảng trống lớn trong hệ thống thu thuế.

Thứ ba, vấn đề an ninh tài chính và rủi ro rửa tiền đang ngày càng nghiêm trọng. Việc thiếu vắng khung pháp lý tạo điều kiện cho các hoạt động phi pháp như rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế thông qua các giao dịch tiền kỹ thuật số. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến an ninh kinh tế trong nước mà còn làm tổn hại uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, thậm chí có thể bị đưa vào danh sách đen của FATF, gây khó khăn cho hoạt động ngân hàng quốc tế.

Thứ tư, người tiêu dùng Việt Nam đang thiếu sự bảo vệ trước các rủi ro đầu tư và lừa đảo. Khi chưa có khung pháp lý rõ ràng, hàng triệu người đang tham gia vào thị trường tiền kỹ thuật số mà không có bất kỳ sự bảo vệ nào trước các hành vi lừa đảo ngày càng tinh vi. Chúng ta đã chứng kiến nhiều vụ lừa đảo lớn liên quan đến tiền mã hóa, nhưng cơ quan quản lý lại không có công cụ pháp lý hiệu quả để can thiệp và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Cuối cùng, chúng ta đang bỏ lỡ cơ hội phát triển "tiền kỹ thuật số có chủ quyền" (CBDC).

Trong khi nhiều quốc gia đã và đang triển khai CBDC nhằm nâng cao hiệu quả hệ thống thanh toán, tăng cường tính bao trùm tài chính và đảm bảo chủ quyền tiền tệ trong kỷ nguyên số, Việt Nam đang chậm trễ trong việc nghiên cứu và phát triển CBDC. Điều này có thể khiến Việt Nam gặp khó khăn trong việc hội nhập với hệ thống thanh toán số quốc tế trong tương lai, đồng thời mất đi cơ hội nâng cao hiệu quả và giảm chi phí trong hệ thống thanh toán nội địa.

.Khi chưa có luật, các doanh nghiệp trong lĩnh vực tài sản số nói chung và trong lĩnh vực blockchain nói riêng đang bị mất cơ hội phát triển ra sao?

+ Khi chưa có khung pháp lý rõ ràng, doanh nghiệp trong lĩnh vực tài sản số và blockchain tại Việt Nam có thể phải đối mặt với nhiều rào cản lớn, làm hạn chế tiềm năng phát triển trên nhiều phương diện.

Điểm đầu tiên có thể kể đến đó là doanh nghiệp gặp khó khăn nghiêm trọng trong việc xác định danh tính pháp lý. Hiện nay, các công ty hoạt động trong lĩnh vực blockchain và tài sản số không thể đăng ký chính thức mã ngành kinh doanh phù hợp với hoạt động của mình. Điều này buộc họ phải đăng ký dưới các ngành nghề không thực sự phản ánh đúng bản chất kinh doanh, hoặc phải đăng ký tại nước ngoài như Singapore, UAE hay Thụy Sĩ. Tình trạng này không chỉ tạo ra chi phí tuân thủ cao mà còn làm giảm sức cạnh tranh và khả năng thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam.

Doanh nghiệp cũng gặp khó trong tiếp cận các dịch vụ tài chính và ngân hàng. Không có khung pháp lý rõ ràng khiến các ngân hàng e ngại trong việc cung cấp dịch vụ cho các công ty blockchain và tài sản số do ngại về rủi ro pháp lý và tuân thủ. Nhiều doanh nghiệp phải tìm kiếm các giải pháp thay thế phức tạp và tốn kém để quản lý tài chính, như mở tài khoản ở nước ngoài hoặc vận hành thông qua các công ty trung gian, làm tăng chi phí và giảm hiệu quả hoạt động.

Việc thiếu khung pháp lý cũng làm hạn chế khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Các hình thức huy động vốn hiện đại như Initial Coin Offering (ICO), Security Token Offering (STO) hay Initial Exchange Offering (IEO) vẫn chưa được thừa nhận tại Việt Nam. Điều này khiến các startup trong lĩnh vực blockchain khó tiếp cận được nguồn vốn đầu tư quan trọng, buộc họ phải tìm kiếm vốn từ nước ngoài hoặc chuyển hoạt động ra khỏi Việt Nam để có thể huy động vốn hiệu quả.

Bên cạnh đó, trong tình trạng thiếu vắng sandbox pháp lý (khung pháp lý thí điểm), các công ty không dám mạo hiểm phát triển các giải pháp sáng tạo mới do lo ngại về rủi ro pháp lý. Việc hoạt động trong một lĩnh vực chưa có quy định cụ thể khiến các doanh nghiệp luôn lo ngại về việc có thể vô tình vi phạm các quy định hiện hành, đặc biệt trong các vấn đề liên quan đến chống rửa tiền, thuế, bảo vệ người tiêu dùng.

Những hạn chế này không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp mà còn tác động đến toàn hệ sinh thái blockchain và tài sản số tại Việt Nam. Việc thiếu vắng khung pháp lý đang làm chậm quá trình chuyển đổi số của nền kinh tế và khiến Việt Nam mất đi cơ hội đón đầu các xu hướng công nghệ mới, dù chúng ta có lợi thế về nguồn nhân lực công nghệ chất lượng cao và tỷ lệ ứng dụng công nghệ cao trong dân số.

Xin cám ơn những chia sẻ của ông!

Theo bà Gracy Chen, giám đốc điều hành Bitget, theo một nghiên cứu từ Chainalysis, thị trường tiền điện tử Việt Nam dự kiến sẽ đạt tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 10% từ năm 2024 đến năm 2032. Doanh thu từ phân khúc tiền điện tử của Việt Nam đạt 1 tỉ USD hết năm 2024, tương ứng mức trung bình khoảng 64,4 USD/người.

bà Gracy Chen, giám đốc điều hành Bitget - Ảnh: NGỌC DIỆP

"Việt Nam có tiềm năng to lớn trong lĩnh vực tài sản số, nhưng thị trường vẫn đang thiếu các nền tảng thực sự hiểu và đáp ứng được nhu cầu đặc thù của người dùng", bà Gracy Chen nêu quan điểm.

NGỌC DIỆP

Nguồn PLO: https://plo.vn/chua-co-khung-phap-ly-viet-nam-thieu-suc-hut-dau-tu-vao-tien-ky-thuat-so-post837551.html