Chưa rõ địa vị pháp lý của các ngân hàng 0 đồng

Các ngân hàng 0 đồng do Nhà nước quản lý nhưng giá trị vốn của Nhà nước chưa được xác định rõ. Do đó, khi xây dựng dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp, cơ quan soạn thảo đề nghị Ngân hàng Nhà nước, các doanh nghiệp cùng phân tích, đề xuất để có giải pháp về vị trí pháp lý cho các ngân hàng này.

Sáng 8/8, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp tổ chức tọa đàm về dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

12 doanh nghiệp của ngành ngân hàng có tổng tài sản hơn 8,5 triệu tỷ đồng

Tại cuộc tọa đàm, ông Lê Anh Xuân - Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính kế toán (Ngân hàng Nhà nước) cho hay, Ngân hàng Nhà nước hiện có 12 doanh nghiệp, trong đó bao gồm các ngân hàng thương mại nhà nước (VCB, BIDV, Agribank, Vietinbank), Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (Napas)…

Cuộc tọa đàm diễn ra sáng 8/8.

Cuộc tọa đàm diễn ra sáng 8/8.

Tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp thuộc NHNN là 233.000 tỷ đồng, tổng vốn chủ sở hữu là 170.000 tỷ đồng, quy mô tài sản lên tới hơn 8,5 triệu tỷ đồng. Đây là những doanh nghiệp có quy mô lớn, ở những lĩnh vực đặc thù, có tác động quan trọng đến hoạt động kinh tế xã hội của đất nước.

Hiện nay, các doanh nghiệp đang hoạt động theo các luật chung như Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật số 69) và các luật chuyên ngành như: Luật các Tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi… Đối với Luật số 69, hiện đang có một số vướng mắc như khái niệm doanh nghiệp do Thủ tướng thành lập. Bởi trong khối ngân hàng thương mại, một số ngân hàng trước đây do Hội đồng Bộ trưởng thành lập, do đó có vướng mắc về xác định thẩm quyền của cơ quan đại diện chủ sở hữu. Hiện Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 97 để tháo gỡ vấn đề này.

Bên cạnh đó có một số nội dung mà Luật số 69 chưa làm rõ nên vướng mắc khi triển khai như: phê duyệt dự án mua sắm tài sản; về các vấn đề liên quan khác cần báo cáo cơ quan đại diện chủ sở hữu; khái niệm tài sản… Do đó, việc sửa đổi Luật số 69 lần này là rất quan trọng.

Theo đại diện ngân hàng Agribank, một trong những thay đổi lớn nhất của dự thảo là chuyển từ quản lý doanh nghiệp sang quản lý dòng vốn đầu tư. Với quan điểm này, dự thảo quy định quản lý đến doanh nghiệp F2 (doanh nghiệp có vốn của doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư trực tiếp - doanh nghiệp F1). Đại diện Agribank băn khoăn quy định này sẽ làm phức tạp hơn công tác quản lý.

Nội dung về phân phối lợi nhuận, quỹ đầu tư phát triển cũng là vấn đề các ngân hàng quan tâm. Theo đại diện Agribank, hiện các ngân hàng đều có nhu cầu tăng vốn hàng năm để đảm bảo tăng trưởng tín dụng. Việc tăng vốn của các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước trên 50% phụ thuộc vào ngân sách, do đó đề xuất nên cho phép để lại 100% lợi nhuận sau thuế để các ngân hàng tăng vốn.

Quy định về doanh nghiệp F2 để doanh nghiệp dễ thực hiện

Ông Triệu Việt Thắng - Trưởng phòng Pháp chế Ngân hàng GP, một ngân hàng thuộc nhóm "ngân hàng 0 đồng" cho hay, đây là ngân hàng đặc thù, Nhà nước quản lý chứ không phải đầu tư vốn. Hiện các ngân hàng đang thực hiện tái cơ cấu và khi Luật này ban hành, các ngân hàng mong muốn Luật sẽ có những quy định cụ thể, tạo điều kiện để các ngân hàng thực hiện tái cơ cấu.

Bên cạnh đó, tại khoản 11, điều 58, quy định doanh nghiệp chỉ được bán nợ cho tổ chức kinh tế có chức năng mua bán nợ. Tuy nhiên hiện nay việc bán nợ đang là một giải pháp quan trọng để các ngân hàng thuộc diện chuyển giao bắt buộc thực hiện tái cơ cấu.

“Nếu giới hạn đối tượng được mua nợ thì có thể sẽ khó khăn cho các ngân hàng trong việc xử lý nợ, tái cơ cấu” - đại diện Ngân hàng Xây dựng nêu ý kiến và đề xuất cho phép áp dụng theo Luật Các tổ chức tín dụng.

Phát biểu làm rõ một số ý kiến các doanh nghiệp nêu, Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính) Bùi Tuấn Minh cho biết, việc đưa các doanh nghiệp F2 vào Luật mới là để tháo gỡ bất cập hiện nay ở Luật số 69 là chưa quy định về doanh nghiệp F2, do đó các doanh nghiệp lúng túng khi thực hiện. Theo tinh thần của dự thảo, cơ quan đại diện chủ sở hữu quản lý doanh nghiệp F1, doanh nghiệp F1 quản lý F2, “đây là để tháo gỡ, dễ thực hiện hơn chứ không phải để làm khó khăn hơn” - ông Bùi Tuấn Minh nêu rõ.

Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp Bùi Tuấn Minh phát biểu tại cuộc tọa đàm.

Cục trưởng Cục Tài chính doanh nghiệp Bùi Tuấn Minh phát biểu tại cuộc tọa đàm.

Về quỹ đầu tư phát triển, ông Bùi Tuấn Minh khẳng định, đây không phải là quỹ của doanh nghiệp mà là của chủ sở hữu, ngay ở tên gọi đã nêu rõ. Do đó, chủ sở hữu có thể sử dụng quỹ này để cho các mục đích khác cũng như điều chuyển tới các doanh nghiệp khác. Cũng với quan điểm này, việc phân phối lợi nhuận sau thuế phải được thực hiện theo Luật này chứ không phải Luật Các tổ chức tín dụng, bởi đây mới là luật chuyên ngành về quản lý vốn nhà nước.

Liên quan đến các ngân hàng 0 đồng, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết đây là vấn đề đang rất khó để xác định đối tượng. Các ngân hàng này thuộc 100% sở hữu của nhà nước, nhưng tính toán giá trị thế nào thì chưa rõ. Do đó, việc đưa các ngân hàng vào luật này hay để ở luật khác thì rất cần được thảo luận, phân tích thêm và đặc biệt là cần có đề xuất giải pháp của NHNN, cơ quan trực tiếp quản lý, nắm rõ về các ngân hàng này.

Ngân hàng 0 đồng là từ để chỉ những ngân hàng trong diện kiểm soát đặc biệt. Theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật NHNN Việt Nam 2010, NHNN có quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý đặc biệt đối với tổ chức tín dụng vi phạm nghiêm trọng các quy định của pháp luật về tiền tệ và ngân hàng, gặp khó khăn về tài chính, có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng, gồm mua cổ phần của tổ chức tín dụng; đặt tổ chức tín dụng vào tình trạng kiểm soát đặc biệt; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của pháp luật về phá sản đối với tổ chức tín dụng.

Theo đó, trong trường hợp giá trị thực vốn điều lệ của ngân hàng nhỏ hơn hoặc bằng 0 thì NHNN sẽ mua bắt buộc toàn bộ cổ phần của ngân hàng với giá 0 đồng/cổ phần.

Hiện nay, có 4 ngân hàng thuộc diện này, gồm Ngân hàng Đại Dương (OceanBank), Ngân hàng Xây Dựng (CBBank), Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) và Ngân hàng Đông Á (DongABank).

Hoàng Yến

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/chua-ro-dia-vi-phap-ly-cua-cac-ngan-hang-0-dong-156719.html