Chuỗi cung ứng đã thiệt hại như thế nào vì thuế quan?
Theo nhiều lãnh đạo doanh nghiệp ngành hậu cần và bán lẻ, kể cả khi Mỹ và Trung Quốc đạt được thỏa thuận, thiệt hại với người tiêu dùng và nền kinh tế vẫn hiện hữu...

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình gặp Tổng thống Mỹ Donald Trump tại Osaka, Nhật Bản, ngày 29/6/2019 trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông Trump - Ảnh: Getty Images
Tổng thống Donald Trump ngày 11/6 tuyên bố cuộc thỏa thuận thương mại giữa Mỹ với Trung Quốc đã "hoàn tất". Theo Bộ trưởng Thương mại Mỹ Howard Lutnick, thuế quan của Mỹ với hàng hóa nhập khẩu vào Trung Quốc sẽ không tăng thêm và được duy trì ở mức 55% hiện tại.
Con số 55% này bao gồm mức thuế 20% chính quyền ông Trump áp đặt do vấn đề về chất gây nghiện fentanyl, thuế đối ứng 10% và thuế 25% đối với một số ngành hàng cụ thể.
Tuy nhiên, theo nhiều lãnh đạo doanh nghiệp ngành hậu cần và bán lẻ, kể cả khi Mỹ và Trung Quốc đạt được thỏa thuận, thiệt hại với người tiêu dùng và nền kinh tế vẫn hiện hữu.
Hiện tại, đơn hàng nhập khẩu từ Trung Quốc vào Mỹ đã giảm sau những tháng đầu năm doanh nghiệp đẩy mạnh nhập khẩu trước thềm thuế đối ứng. Nhiều công ty Mỹ đang chuẩn bị cho bối cảnh tăng trưởng kinh tế chậm lại.
“Tôi cho rằng số liệu kinh tế thực tế sẽ sớm xấu đi”, ông Jamie Dimon, CEO ngân hàng JPMorgan, nhận định tại một sự kiện ngày 11/6.
Theo ông Alan Baer, CEO công ty logistics OL USA, mức thuế quan 55% hiện tại với hàng hóa Trung Quốc sẽ khiến hàng trăm, nếu không muốn nói là hàng nghìn, doanh nghiệp rơi vào tình thế khó khăn và kéo theo đó là hàng nghìn người lao động có thể mất việc.
“Rất ít công ty có thể định giá lại sản phẩm để hấp thụ thuế quan hoặc tăng giá để bù đắp tác động thuế quan”, ông Baer nhận xét với hãng tin CNBC. "Cuối cùng, người tiêu dùng phải chịu”.
Theo nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Mỹ, mức thuế quan 55% vẫn là quá cao để họ có thể khôi phục lượng đơn hàng như trước đây.
“Mức thuế quan 55% với hàng hóa từ Trung Quốc sẽ gây ra bất ổn đáng kể cho các công ty hàng tiêu dùng đang nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc”, ông Bruce Kaminstein, người sáng lập, cựu CEO công ty sản phẩm vệ sinh Casabella, cho biết. “Tổng thống Trump gần đây nói rằng ông ấy không muốn Mỹ sản xuất áo phông. Vậy tại sao ông ấy lại làm vậy? Ông ấy muốn sản xuất muỗng vét bột ư? Tôi không nghĩ vậy”.
Theo dữ liệu lạm phát Mỹ công bố tuần trước, mức tăng giá thấp hơn dự kiến nhưng biến động giá sẽ vẫn lớn do bất ổn về chính sách thuế quan.
Theo ông Kaminstei, hầu hết doanh nghiệp nhập khẩu Mỹ đang kinh doanh với biên lợi nhuận gộp khoảng 40%-60%. Do đó, việc tăng giá đáng kể hoặc cắt giảm chi phí để tồn tại sẽ gây thêm áp lực về dòng tiền cho các công ty này.
“Mức thuế quan 55% với các nhà cung cấp hàng may mặc và giày dép lớn nhất của Mỹ, cộng thêm mức thuế theo chế độ thuế tối huệ quốc (MFN) và theo mục 301 của Luật Thương mại Mỹ vốn đã cao, không mang lại lợi ích cho nước Mỹ”, ông Steve Lamar, CEO của Hiệp hội may mặc và giày dép Mỹ (AAFA), nhận xét.
“Chúng tôi đang theo dõi sát sao tình hình nhưng thực tế là: Gần như tất cả quần áo và giày dép được bán tại Mỹ hiện phải chịu mức thuế quan cao hơn. Giá tăng sẽ ảnh hưởng nặng nề đến các gia đình Mỹ, đặc biệt là khi họ chuẩn bị mua sắm cho năm học mới và kỳ nghỉ lễ. Nhà chức trách sẽ chưa thể kịp đạt được các thỏa thuận thương mại mới để giảm thuế quan", ông Lamar nhận định.
Chính phủ Trung Quốc hiện chưa xác nhận tuyên bố “hoàn tất” thỏa thuận thương mại mà ông Trump nói đến, mà chỉ khẳng định rằng Bắc Kinh nhất trí với các điều khoản trong thỏa thuận “đình chiến” mà hai bên đạt được ở Geneva, Thụy Sỹ đầu tháng trước. Trong một bài đăng trên mạng xã hội Truth Social ngày 11/6, ông Trump biết thỏa thuận phục thuộc vào sự phê duyệt cuối cùng của ông và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Cũng trong ngày 11/6, Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent Mỹ cho biết Washington có thể gia hạn hoãn thuế quan cho các đối tác thương mại đang đàm phán “một cách thiện chí”.
Bất ổn thuế quan cũng đang ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của Liên minh châu Âu (EU) sang Mỹ. Ông Lutnick ngày 11/6 cũng cho biết thỏa thuận thương mại Mỹ - EU có thể sẽ đạt được cuối cùng, một phần bởi khối lượng công việc cần xử lý với một khối gồm nhiều quốc gia thay vì một chính phủ riêng lẻ.
Các hãng vận tải chuyên tuyến Mỹ - EU đang lo lắng về bối cảnh hiện tại. Ông Andrew Abbott, CEO công ty vận tải Atlantic Container Lines, cho biết dù nhịp độ xuất nhập khẩu vẫn ổn nhưng ông lo lắng về sự thay đổi sắp tới do bất ổn thuế quan và mối lo dai dẳng về suy thoái kinh tế.
Theo ông Dean Croke, nhà phân tích trưởng tại công ty AT Freight & Analytics, các công ty vận tải đường bộ đang lo lắng về phần còn lại của năm nay.
Ngành vận tải đường bộ Mỹ đang đối mặt nhiều thách thức. Trong khi hàng nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 10% nhu cầu vận tải đường bộ, hoạt động sản xuất trong nước mới là động lực chính của ngành này. Tuy nhiên, nhu cầu vận tải đang giảm do mùa nông sản - một động lực khác của ngành - ảm đạm và nhu cầu tiêu dùng suy yếu.
“Tôi cho rằng thiệt hại với ngành vận tải đã hiện hữu. Họ sẽ phải chật vật để phục hồi. Chuỗi cung ứng sẽ không thể phục hồi cho đến khi các thỏa thuận thương mại được thực hiện. Một khi đã mất lòng tin, làm sao bạn có thể ra quyết định kinh doanh khi mà mọi thứ có thể đổ bể chỉ bởi một dòng đăng tải trên mạng xã hội? Bạn phải lường trước tình huống xấu nhất”.
Từ đầu năm tới nay, lượng hàng xuất khẩu từ một số đối tác thương mại hàng đầu vào Mỹ đã giảm mạnh. Theo số liệu tổng hợp của CNBC, số lượng container loại 20 feet xuất khẩu từ Italy sang Mỹ đã giảm 15% so với cùng kỳ năm trước, Trung Quốc giảm 11% còn Hàn Quốc giảm 9%. Riêng Việt Nam và Ấn Độ lần lượt tăng 21% và 13% do đây là hai nước nằm trong chiến lược Trung Quốc +1 của nhiều doanh nghiệp.
Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/chuoi-cung-ung-da-thiet-hai-nhu-the-nao-vi-thue-quan.htm