Chương trình giao lưu 'Công tác Dân số Việt Nam - Nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước'
Chiều 26/11, Chương trình giao lưu với chủ đề 'Công tác Dân số Việt Nam - Nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước' do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức đã tập trung phân tích sâu về dự án Luật Dân số - đạo luật đang được trình tại Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XV.
Giải quyết những vấn đề mang tính đột phá
Tại buổi giao lưu, các đại biểu thống nhất nhận định, việc ban hành Luật Dân số lần này là hết sức cần thiết, nhằm nâng Pháp lệnh Dân số năm 2003 lên một tầm cao mới, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho chính sách dân số quốc gia, khẳng định sự chuyển hướng trọng tâm từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, coi dân số là trung tâm, mục tiêu và động lực của phát triển bền vững.

Quang cảnh buổi giao lưu.
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Hoàng Mai, năm 2017, sau khi đánh giá toàn bộ chính sách dân số trong giai đoạn trước, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII đã ban hành Nghị quyết 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 về công tác dân số trong tình hình mới; giải quyết đúng và trúng những vấn đề dân số của Việt Nam, tạo ra bước ngoặt lớn trong chính sách về dân số.
Bên cạnh thành tựu, Nghị quyết 21 cũng chỉ rõ những xu hướng dân số mới đang đặt ra thách thức lớn, từ mức sinh thấp đến mất cân bằng giới tính khi sinh, già hóa dân số và yêu cầu nâng cao chất lượng dân số. Từ thực tiễn đó, yêu cầu nâng Pháp lệnh Dân số năm 2003 lên thành Luật Dân số trở nên cấp thiết.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Hoàng Mai phát biểu tại buổi giao lưu.
Theo Phó Chủ nhiệm Nguyễn Hoàng Mai, các cơ quan của Chính phủ đã có quá trình chuẩn bị kỹ lưỡng, có đủ thời gian xây dựng các điều kiện cần thiết, đánh giá tác động và hoàn thiện hồ sơ. Khi chỉnh lý, dự án Luật được trình ra Quốc hội đã nhận được sự ủng hộ rất cao của các cơ quan liên quan, của đại biểu Quốc hội cũng như của xã hội, khẳng định tính cần thiết của việc ban hành Luật.
Mục tiêu của Luật là giải quyết đồng bộ các vấn đề dân số trong tình hình mới, thông qua điều chỉnh toàn diện các nội dung liên quan đến quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số, đặc biệt là những vấn đề đang nổi lên như thích ứng với già hóa dân số.
Ở góc độ cơ quan soạn thảo, TS. Phạm Vũ Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Dân số (Bộ Y tế) cho biết, việc xây dựng dự án Luật Dân số nhằm tạo cơ sở pháp lý thống nhất, đồng bộ, thể chế hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân số; đồng thời khắc phục những hạn chế, tồn tại của Pháp lệnh Dân số năm 2003, đáp ứng yêu cầu công tác dân số trong bối cảnh mới.

TS. Phạm Vũ Hoàng, Phó Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế phát biểu tại buổi giao lưu.
"Nội hàm của công tác dân số rất rộng, giữ vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội. Các yếu tố liên quan đến quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số đã được điều chỉnh trong nhiều luật hiện hành. Đồng thời, các yếu tố khác gắn với sự phát triển như tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ y tế, giáo dục, nhà ở, tiết kiệm - đầu tư, lao động, chi tiêu công… cũng đã được hệ thống pháp luật hiện hành điều chỉnh đầy đủ" - TS. Phạm Vũ Hoàng chia sẻ.
Xuất phát từ những lý do trên, cùng với việc rà soát và tham khảo kinh nghiệm quốc tế, dự án Luật Dân số cụ thể hóa 4 chính sách lớn đã được Chính phủ thông qua, đồng thời không trùng lặp với các luật khác là: Duy trì mức sinh thay thế; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; thích ứng với già hóa dân số, dân số già; nâng cao chất lượng dân số. Ngoài ra còn có các nội dung về truyền thông, vận động, giáo dục về dân số và các điều kiện bảo đảm thực hiện công tác dân số theo hướng tiếp cận dân số và phát triển.
Để triển khai 4 chính sách này, dự thảo Luật có nhiều quy định mới mang tính đột phá so với Pháp lệnh Dân số năm 2003. Đơn cử như để duy trì mức sinh thay thế, Luật quy định tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai; hỗ trợ tài chính cho một số nhóm đối tượng, như phụ nữ dân tộc thiểu số rất ít người, phụ nữ ở địa phương có mức sinh thấp, phụ nữ sinh đủ hai con trước 35 tuổi; bổ sung tiêu chí ưu tiên được mua hoặc thuê nhà ở xã hội...
Bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ
Theo Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội Nguyễn Hoàng Mai, trong quá trình xây dựng Luật Dân số, Bộ Y tế đã tổ chức nhiều hội nghị tham vấn với các bộ, ngành, địa phương và cơ quan liên quan để hoàn thiện dự thảo trình Chính phủ, trình Quốc hội. Khi dự thảo được trình ra Quốc hội, cơ quan thẩm tra, các đại biểu Quốc hội cũng đóng góp rất nhiều ý kiến phong phú.
Công tác dân số liên quan đến rất nhiều luật, bộ luật, trong đó có luật điều chỉnh trực tiếp và gián tiếp. Do đó, việc bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật là nhiệm vụ rất quan trọng. Một trong những điểm tiếp thu quan trọng của dự thảo Luật là bổ sung một điều quy định về chính sách dân số của Nhà nước; một số nội dung chi tiết sẽ được quy định trong các luật chuyên ngành, nhưng bảo đảm công tác dân số được triển khai thống nhất, hiệu quả.
Cùng với đó, dự thảo Luật bổ sung một điều riêng về các biện pháp khi đất nước bước vào giai đoạn già hóa dân số. Từ điều khoản này, Chính phủ sẽ có cơ sở ban hành nghị định, chương trình, dự án nhằm thích ứng với già hóa, đồng thời phát triển các chính sách ưu đãi, khuyến khích xây dựng cơ sở hỗ trợ người cao tuổi.
Phó Chủ nhiệm Nguyễn Hoàng Mai cho rằng, khi Luật Dân số được ban hành, hệ thống cơ sở chăm sóc người cao tuổi sẽ được điều chỉnh theo hướng bài bản hơn, quy mô lớn hơn, thay cho tình trạng chủ yếu tự phát, quy mô nhỏ như hiện nay. Bên cạnh đó, Luật bổ sung các quy định về phát triển nguồn nhân lực làm công tác dân số, coi đây là trụ cột quan trọng để triển khai Luật trong thời gian tới.
Ở góc độ quản lý ngành, TS. Phạm Vũ Hoàng nhấn mạnh, dự thảo Luật quy định phân cấp, phân quyền cho chính quyền địa phương cấp tỉnh quyết định một số biện pháp một cách chủ động, linh hoạt. Trên cơ sở tình hình kinh tế - xã hội, động thái dân số và khả năng cân đối ngân sách, địa phương có thể quyết định các biện pháp cụ thể và mức hỗ trợ tài chính, nhưng không được thấp hơn mức Chính phủ quy định. Cách thiết kế này được đánh giá là vừa bảo đảm sự thống nhất chính sách trên phạm vi cả nước, vừa tạo không gian chủ động cho địa phương.

TS.BS. Vũ Duy Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Dân số, Trẻ em và Phòng chống tệ nạn xã hội TP. Hà Nội chia sẻ tại buổi giao lưu.
Từ thực tiễn địa phương, TS.BS. Vũ Duy Hưng, Chi cục trưởng Chi cục Dân số, Trẻ em và Phòng chống tệ nạn xã hội TP Hà Nội cho biết, Hà Nội có thể chủ động bố trí nguồn lực, đề xuất các biện pháp như tăng thời gian nghỉ thai sản khi sinh con thứ hai; hỗ trợ tài chính cho các nhóm đối tượng sinh đủ hai con; bổ sung tiêu chí ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở xã hội; xây dựng các chính sách bảo đảm xã hội phù hợp với đặc thù Hà Nội.
Giải bài toán khó về dân số
Ở góc nhìn chuyên gia, GS.TS. Nguyễn Đình Cử, chuyên gia Dân số và các vấn đề xã hội cho rằng, 4 chính sách lớn mà Luật Dân số tập trung quy phạm hóa cũng chính là 4 thách thức rất lớn của công tác dân số hiện nay.

GS.TS. Nguyễn Đình Cử, chuyên gia Dân số và các vấn đề xã hội chia sẻ tại buổi giao lưu.
Trước hết là thách thức về mức sinh. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2024, mức sinh chỉ còn 1,93 con/cặp vợ chồng; riêng TP. Hồ Chí Minh - một trong những địa phương phát triển nhất - chỉ 1,39 con/cặp vợ chồng. Trong khi đó, thế giới cho thấy một "quy luật": Càng phát triển thì mức sinh càng thấp; một số nước như Hàn Quốc hiện chỉ còn khoảng 0,68 con/cặp vợ chồng. Theo GS. Nguyễn Đình Cử, việc nâng mức sinh lên để đạt và duy trì mức sinh thay thế là bài toán rất khó, bởi ngay cả những quốc gia đầu tư rất lớn cũng chỉ đạt kết quả trong một giai đoạn ngắn.
Thách thức thứ hai là mất cân bằng giới tính khi sinh. Việt Nam phát hiện tình trạng này từ năm 2007, khi bình quân cứ 100 bé gái thì có tới 111 - 112 bé trai, cao hơn nhiều so với tỷ số tự nhiên (khoảng 104 - 106). Năm 2016, Chính phủ đã ban hành Đề án can thiệp giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh với mục tiêu đến năm 2025 đưa tỷ số này về 107 bé trai/100 bé gái, song đến nay mục tiêu vẫn chưa đạt; Nghị quyết 21 đặt mục tiêu đến năm 2030 đưa tỷ số về dưới 109 nhưng mức giảm còn khiêm tốn.
Thứ ba là già hóa dân số nhanh. Nếu như nước Pháp mất 115 năm để tăng tỷ lệ người cao tuổi từ 10% lên 20%, thì Việt Nam chỉ mất khoảng 27 năm, từ 2001 đến 2038. Điều này khiến "thời gian chuẩn bị" về vật chất, tâm lý xã hội, an sinh và hệ thống chăm sóc người cao tuổi trở nên rất ngắn. Đến năm 2023, mới chỉ khoảng 13% người cao tuổi có lương hưu và trợ cấp từ bảo hiểm xã hội, dự báo đến năm 2060 cũng chỉ khoảng 38%. Vấn đề thu nhập thường xuyên và an sinh xã hội cho người cao tuổi vì thế trở nên cấp bách.
Thứ tư là chất lượng dân số. Về tổng thể, Việt Nam thuộc nhóm nước có chỉ số phát triển con người (HDI) cao; năm 2023 đạt 0,766. Tuy nhiên, dự thảo Luật Dân số tập trung mạnh vào chất lượng dân số đầu đời, tức là bảo đảm trẻ em sinh ra khỏe mạnh, không mắc các bệnh, dị tật bẩm sinh.
Theo GS. Nguyễn Đình Cử, để làm được điều này, cần thay đổi những tập quán lâu đời như tảo hôn, hôn nhân cận huyết; thúc đẩy việc khám sức khỏe trước khi kết hôn, tầm soát trước sinh và sơ sinh. Đây đều là những việc "rất mới" đối với đa số người dân và không dễ để thực hiện ngay, đòi hỏi thời gian và sự kiên trì lớn.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm tại buổi giao lưu.
Về điều kiện bảo đảm thực hiện, TS. Phạm Vũ Hoàng cho biết, dự thảo Luật quy định rõ nguồn nhân lực và kinh phí cho công tác dân số. Luật chỉ quy định chính sách; còn Chính phủ sẽ quy định về đối tượng, mức hỗ trợ và cơ chế phân bổ cụ thể. Nguồn kinh phí thực hiện đến từ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, Quỹ Bảo hiểm xã hội và Quỹ Bảo hiểm y tế; đồng thời không làm phát sinh bộ máy, biên chế mới, phù hợp chủ trương tinh gọn của Đảng.
Theo các chuyên gia, sự ra đời của Luật Dân số sẽ đánh dấu bước chuyển quan trọng, từ quản lý dân số bằng Pháp lệnh sang quản lý bằng Luật, tạo nền tảng pháp lý để giải quyết đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số trong mối quan hệ hữu cơ, chặt chẽ với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.












