Chuyện mộc bản từ Ngự Hà Viên
HNN - Sau thời gian tạm đóng cửa, đầu tháng 8 năm nay, Ngự Hà Viên - khu nhà vườn bên sông Ngự Hà, đã mở cửa trở lại với một chương trình thú vị, giới thiệu di sản mộc bản Thanh Liễu của vùng đất Hải Dương.

Nghệ nhân Kỳ Hữu Phước với bộ mộc bản tranh gia truyền. Ảnh: BNL
Trong khu vườn rộng trên 1.000m2 tọa lạc tại 181 đường Xuân 68 (phường Phú Xuân, TP. Huế), với 6 ngôi nhà rường cổ bao quanh một hồ nước, người xem được thưởng lãm những bức tranh mộc bản tuyệt đẹp, được tự tay thực hành kỹ thuật khắc - in trên giấy dó, được nghe câu chuyện trăm năm của di sản.
Ngự Hà Viên là một điểm đến văn hóa được cố nghệ nhân Dương Đình Vinh mất 20 năm nghiên cứu, sưu tầm, phục chế để bảo tồn, giữ gìn những ngôi nhà rường cổ của Huế. Mong ước của ông là biến Ngự Hà Viên thành một không gian bảo tồn có tính ứng dụng cao, gắn kết việc trưng bày, học nghề, giao lưu và thực hành các giá trị di sản với mục tiêu tạo ra kinh tế.
Về di sản mộc bản Thanh Liễu, đây là một làng nghề có lịch sử hình thành trên 500 năm. Khác nhiều nơi, thợ Thanh Liễu dùng dao thay vì đục để tạo các đường nét rất nhỏ, mịn và tinh xảo, đem lại độ mượt đặc trưng cho bản in. Từng là trung tâm khắc in mộc bản của cả nước, kéo dài từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, nghề in khắc gỗ mộc bản làng Thanh Liễu đã lưu giữ, in hàng nghìn bộ kinh sách, con dấu. Rất nhiều bản khắc gỗ vẫn còn lưu giữ đến ngày nay, như: bản khắc bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh của Lê Hữu Trác đang lưu tại chùa Đại Tráng (Bắc Ninh), hàng trăm bản in kinh Phật lưu giữ tại chùa An Bình (Hải Dương). Đặc biệt, bộ mộc bản Triều Nguyễn của cung đình Huế, được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam năm 2009 cũng có sự góp công không nhỏ của người thợ khắc mộc bản làng Thanh Liễu.
Thế nhưng, có dịp dự chương trình “Mạch nguồn di sản - dấu ấn mộc bản Thanh Liễu trong lòng Cố đô” vừa diễn ra ở Ngự Hà Viên, điều khiến nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông lấy làm ấn tượng, chính là sự tham dự của những người trẻ. Trên trang facebook cá nhân, ông chia sẻ: Dự buổi giới thiệu mộc bản làng Thanh Liễu ở Ngự Hà Viên, tôi thấy mừng thầm vì các bạn trẻ đã rất tâm huyết giữ gìn, tái sinh một di sản cổ mang nhiều ý nghĩa trong đời sống văn hóa hiện nay.
Trong số những gương mặt trẻ ấy, có nghệ nhân Nguyễn Công Đạt thuộc đời thứ 17 của làng nghề Thanh Liễu. Lớn lên trong gia đình có truyền thống khắc in, không chỉ bền bỉ học nghề, luyện nghề đến tinh thông các kỹ thuật chạm khắc, pha mực, in giấy, nghệ nhân trẻ này đã hệ thống hóa quy trình để có thể trình diễn, giảng giải cho công chúng. Đặc biệt, anh đã ứng dụng mộc bản truyền thống vào sản phẩm hiện đại, từ hộp đựng quà, túi xách, đến các vật đựng trang trí khác, đưa di sản đến gần người trẻ và tạo sinh kế bền vững cho người làm nghề.
Vui mừng cho làng nghề Thanh Liễu nhưng cũng như ông Nguyễn Hữu Thông, lại chạnh lòng khi nghĩ đến tranh làng Sình, làng Chuồn của Huế. Có tuổi đời gần 500 năm, tranh mộc bản làng Sình vốn nổi tiếng với dòng tranh thuần tín ngưỡng và phong tục. Cách đây hai năm, có dịp về làng Sình, gặp nghệ nhân Kỳ Hữu Phước - hậu duệ đời thứ 9 trong một gia đình truyền thống làm tranh dân gian, ông cho hay, tranh làng Sình dù đang sống đấy nhưng chật vật lắm. Việc ứng dụng dòng tranh này vào đời sống rất khó khăn. Để bám giữ nghề, người nghệ nhân già đã phát kiến một số sản phẩm như bộ lịch tết “Bát âm” hay 12 con giáp và tìm tòi để tự chủ việc làm giấy in thủ công tại nhà.
Với tranh làng Chuồn, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông, đã từng hiện diện với dòng tranh cát tường Phúc, Lộc, Thọ, Khang, Ninh... và các câu đối chúc phúc, được in từ mộc bản trên nền giấy được trang trí lộng lẫy bằng các họa tiết tứ linh, bát bửu, cổ đồ... bồi phủ sắc điều, kẽ lục, chỉ vàng…, để trở thành một tác phẩm hoàn chỉnh và trang trọng. Đáng tiếc, qua thời gian, hiện dòng tranh trang trí của làng Chuồn không còn nữa. Dẫu vậy, ông Thông tin tưởng, nếu được quan tâm phục hồi, nếu có một dự án tâm huyết, cùng sự vào cuộc của những người trẻ, việc làm sống lại một di sản đáng quý của Huế như tranh làng Chuồn là trong tầm tay, bởi mộc bản dù hiếm nhưng không thiếu tài liệu hồi cố và chứng nhân vẫn còn đang sống.
Liệu có thể khai thác, ứng dụng tranh làng Chuồn xưa vào tranh tết, bao lì xì, thiệp xuân, bao bì sản phẩm? Liệu có phục hồi được tranh Sình để tìm hướng đi mới cho dòng tranh tín ngưỡng này? Đó là những câu hỏi thao thức không chỉ từ nỗi niềm của nghệ nhân Kỳ Hữu Phước, những trăn trở từ gan ruột của nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Thông hay hoài bão của cố nghệ nhân Dương Đình Vinh, mà về đường dài, đó là làm sao để tạo sinh kế cho Huế từ di sản.