Chuyện xây thành đô nước Việt

Từ thời nước ta dựng nền tự chủ, vua Ngô, vua Đinh và Tiền Lê đóng đô ở Hoa Lư, thì có thành quách không? Việc này, dù dấu tích không còn, lần tìm sử cũ, có ghi chép cả.

Sử liệu về thành quách xưa đã có từ hàng nghìn năm về trước. Hiện kinh đô nước Văn Lang ở đâu, có thành hay không chưa có cơ sở để xác định. Nhưng, từ thời An Dương Vương, câu chuyện nhà vua xây thành Cổ Loa đã được sử sách ghi lại, dù còn mang nhiều chi tiết huyền thoại, từ chuyện rùa vàng, gà trắng... "Đại Việt sử ký toàn thư" chép về thành cổ Thục vương như sau: "Năm An Dương vương thứ nhất (257 trước Công nguyên), sau khi hạ được Hùng vương, Thục vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành, lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn, vì thành rất cao)".

Dấu vết thành nhà Hồ (Thanh Hóa) còn lại đến ngày nay.

Dấu vết thành nhà Hồ (Thanh Hóa) còn lại đến ngày nay.

Dấu vết Loa Thành hiện vẫn còn thấy rõ 3 lớp tường thành vòng tròn tại Đông Anh, Hà Nội. Còn trong giai đoạn Bắc thuộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc đều xây dựng thành trì ở các quận, huyện để phục vụ sự cai trị. Vậy nên khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, sử ghi hai bà đã "dấy quân đánh lấy thành ấp", khiến "65 thành ở Lĩnh Ngoại đều hưởng ứng". Lúc đó, trị sở của nhà Đông Hán ở nước ta đóng tại thành Long Biên, nên "Đại Nam quốc sử diễn ca" có thơ rằng "Ầm ầm binh mã xuống gần Long Biên", nhưng sau đó hai bà quyết định "Đô kỳ đóng cõi Mê Linh/ Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta". Có lẽ, ở Mê Linh khi đó cũng có một ngôi thành mà quân Đông Hán xây dựng (?).

Đến thời Lý Nam Đế, sử viết năm 541 nhà vua đuổi được Thứ sử Giao Châu của nhà Lương là Tiêu Tư, chiếm lấy châu thành Long Biên để lập quốc. Tuy nhiên, thành Long Biên thời đó sau này chưa xác định chính xác ở vị trí nào. Có thuyết cho rằng thành Long Biên ở cửa sông Tô Lịch thuộc Hà Nội ngày nay, nhưng lại có thuyết cho rằng thành nằm mãi gần thành phố Bắc Ninh (cũ).

Thành Long Biên của nhà Lương xây sau đó được Vua Triệu Việt Vương dùng làm trú sở. Sử ghi, năm 550, sau khi đánh được tướng nhà Lương là Dương San, "quân Lương tan vỡ chạy về Bắc, nước ta được yên, vua vào thành Long Biên ở".

Vị vua khởi đầu nền tự chủ của nước ta là Ngô Quyền được sử viết "đóng đô ở Loa Thành" (Cổ Loa) nhưng sử sách không cho biết thành này lúc đó như thế nào, có được nhà vua xây đắp, sửa sang gì không. Cho nên, ngôi thành đầu tiên trong thời kỳ tự chủ của nước ta là Hoa Lư.

Khi chép về đời Vua Ngô Xương Văn (tự xưng là Nam Tấn vương), các sử quan triều Nguyễn trong bộ "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" chép rằng: "Năm 951, Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở Hoa Lư" và có "lời cẩn án" giải thích rõ: "Hoa Lư ở về sơn phận hai xã Uy Viễn và Uy Tế thuộc Ninh Bình. Nơi đây bốn mặt đều có núi đá đứng thẳng như bức vách, trong có một chỗ hơi bằng phẳng rộng rãi, người xứ ấy gọi là động Hoa Lư. Theo sách "An Nam kỷ yếu", Hoa Lư ở về huyện Lê Bình. Lê Bình bây giờ là Gia Viễn, trong lòng động rộng 2 trượng có một cái lạch nước quanh co khuất khúc chảy đến phía Nam thành Hoa Lư. Thành Hoa Lư cũng ở huyện Lê Bình. Họ Đinh nhân thế núi đắp thành ấy chu vi năm trăm trượng. Vết thành cũ vẫn còn. Như thế thì động Hoa Lư là chỗ Đinh Tiên Hoàng khởi binh; thành Hoa Lư ở Trường Yên là nơi đóng đô của họ Đinh".

Đó là thành Hoa Lư để Đinh Bộ Lĩnh dùng làm căn cứ để cát cứ. Còn việc dựng thành đóng đô được tiến hành vào năm Mậu Thìn, năm thứ nhất sau khi Đinh Tiên Hoàng đế lên ngôi (968), "Toàn thư" viết: "Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh ấp về động Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào, xây cung điện, đặt triều nghi...".

Lúc này, triều đình nhà Đinh bắt đầu mới có thành cao, hào sâu, có cung điện để vua thiết triều và các quan nghị sự, bắt đầu những thiết chế đầu tiên của một nhà nước phong kiến. Gần đây, các nhà khảo cổ cũng mới phát hiện những dấu vết nền tường thành Hoa Lư tại khu vực phía Đông Bắc của kinh thành cổ, tại xã Trường Yên, Ninh Bình.

Tuy nhiên, thành Hoa Lư chỉ được dùng làm quốc đô nước Đại Cồ Việt cho đến khi Vua Lý Thái Tổ lên ngôi. Ngay trong năm Thuận Thiên thứ nhất (1010), nhà vua đã lệnh dời đô đến Đại La, vì lý do: "Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền dời đô".

Lý do nhà vua chọn Đại La để định đô vì đây là "Đô cũ của Cao Vương (Cao Biền, quan đô hộ nhà Đường), ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam - Bắc - Đông - Tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh...".

Tất nhiên, khi đó, Đại La đã có thành tương đối cao, nhưng chưa đầy đủ các thiết chế để lập làm quốc đô. Do đó, ngay sau khi dời đô và đổi tên thành Thăng Long, Vua Lý Thái Tổ mới cho khởi công hàng loạt các cung điện, như điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Sau điện Càn Nguyên mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng chính Nam dựng điện Cao Minh, đều có thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên dựng 2 điện Long An, Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau dựng 2 cung Thúy Hoa, Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ.

Đồng thời, vua cho dựng kho tàng và bắt đầu đắp thành, đào hào để củng cố khả năng phòng thủ. 4 mặt thành mở 4 cửa: phía Đông gọi là cửa Tường Phù, phía Tây gọi là cửa Quảng Phúc, phía Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc gọi là cửa Diệu Đức. Lúc này, thành Thăng Long mới hoàn chỉnh thành một thành đô, một căn cứ vững chắc để nhà vua yên tâm trị quốc.

Khi nhà Hồ chuẩn bị cướp ngôi nhà Trần, Hồ Quý Ly đầu tiên ép Vua Trần Thuận Tông dời đô về Tây Đô (Thanh Hóa). Sử cũ viết: "Năm Quang Thái thứ 10 (1397), mùa xuân, tháng Giêng, sai Lại Bộ Thượng thư kiêm Thái sư lệnh Đỗ Tỉnh đi xem đất và đo đạc động An Tôn (sau là Vĩnh Lộc) phủ Thanh Hóa, đắp thành đào hào, lập nhà tông miếu, dựng đàn xã tắc, mở đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đó, tháng 3 thì công việc hoàn tất". Có lẽ "công việc hoàn tất" này chỉ là việc xem đất, đo đạc, còn việc xây thành Tây Đô phải kéo dài lâu hơn nhiều, nếu quan sát công trình tường thành và cổng đá đồ sộ còn lại ngày nay. Việc xây thành cũng không phải thuận tiện, vì đến năm 1401, Hồ Hán Thương lại phải hạ lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành, vì lý do: "Trước đây xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ, đến đây mới xây trên bằng gạch, dưới bằng đá".

Thành Thăng Long có lẽ được giữ gìn rất cẩn thận nên sau cuộc kháng chiến chống quân Minh, từ khi Vua Lê Thái Tổ lên ngôi ở kinh đô Thăng Long, không thấy sử sách viết về việc các vua đầu triều Lê sửa sang thành này. Mãi đến đời Vua Lê Thánh Tông, năm Hồng Đức thứ 8 (1477), mới có sự kiện vua cho xây thành Đại La. Nguyên nhân là vì: "Vua cảnh giác việc Vua Lê Nhân Tông bị hại, nên lấy lính đắp thành đó", dù chuyện Vua Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân đem quân leo thang vượt tường thành vào sát hại diễn ra cách đó đã 18 năm. Vòng thành này được mở rộng đến 8 dặm, sau 8 năm thì đắp xong.

Đến năm Hồng Đức thứ 21 (1490), sử viết Vua Lê Thánh Tông sai đắp rộng thêm Phượng Thành, dựa theo quy mô thời Lý, Trần. Phượng Thành, tức vòng thành nội, nằm trong lòng thành Thăng Long, được Vua Trần Thái Tông cho đắp từ năm 1243, còn gọi là thành Long Phượng.

Việc xây cất tường thành ở kinh thành Thăng Long đời Vua Lê Tương Dực diễn ra với quy mô lớn. Năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), vị vua này sai "đắp thành bao sông Tô Lịch, làm điện Tường Quang", rồi sau đó lại "đắp thành rộng lớn mấy ngàn trượng, bao quanh điện Tường Quang, quán Chân Vũ, chùa Thiên Hoa ở phường Kim Cổ, từ phía Đông đến phía Tây Bắc, chắn ngang sông Tô Lịch, trên đắp hoàng thành, dưới làm cửa cống, dùng ngói vỡ và đất đá nện xuống, lấy đá phiến và gạch vuông xây lên, lấy sắt xuyên ngang". Việc xây cất liên miên khiến dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân 5 phủ đắp thành chưa xong được, lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười. Lòng dân bất bình, nên các cuộc nổi loạn diễn ra, lúc này thì thành cao không bảo vệ được nữa, Lê Tương Dực bị Trịnh Duy Sản sát hại năm 1516.

Chiến tranh Lê - Mạc có lẽ khiến thành Thăng Long bị phá hủy nặng nề, nên năm 1585, khi Vua Mạc Mậu Hợp chuẩn bị vào ở trong thành Thăng Long, đã sai quân lính sửa đắp thành trì, làm nhiều công việc xây dựng, nung ngói gạch, mãi một năm mới xong.

Vòng lũy đất bảo vệ thành Đại La lại bị phá hủy vào giai đoạn cuối cuộc chiến Lê - Mạc, năm 1592, khi đó, hàng tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện đã xúi chúa Trịnh Tùng cho các quân san phẳng lũy đất đắp thành Đại La dài đến mấy ngàn trượng, phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, đều phá thành đất bằng, không mấy ngày là xong. Tuy nhiên, sau đó không lâu, quân của chúa Trịnh Tùng vẫn bắt được vua tôi nhà Mạc để đưa vua Lê về lại Thăng Long. Sang thời Lê trung hưng, vòng thành Đại La được đắp lại, còn lưu dấu vết đến nay.

Đến triều nhà Nguyễn, khi xây dựng kinh đô Phú Xuân, Vua Gia Long đã áp dụng kiến trúc phương Tây theo kiểu Vauban, với hệ thống hào, pháo đài, pháo môn nhằm tận dụng ưu thế phòng thủ tốt nhất cho tòa thành nằm bên sông Hương này.

Lê Tiên Long

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/khoa-hoc-van-minh/chuyen-xay-thanh-do-nuoc-viet-i780924/