Cơ hội cho viên nén gỗ tại thị trường nội địa
Có đến 95% lượng viên nén gỗ sản xuất tại Việt Nam (khoảng 4 triệu tấn) được sử dụng để xuất khẩu, chủ yếu sang thị trường Nhật Bản và Hàn Quốc. Tiêu thụ nội địa được dự báo sẽ tăng lên khi hệ thống lò hơi đang sử dụng than chuyển đổi sang sử dụng loại nhiên liệu sạch này.
Thị trường xuất khẩu ổn định
Được sử dụng từ các phế phụ phẩm của ngành gỗ như cành củi, ngọn cây, mùn cưa, dăm bào…, trong những năm qua, ngành hàng viên nén gỗ của Việt Nam phát triển rất mạnh và có thị trường xuất khẩu (XK) ổn định.
Theo Báo cáo của Tổ chức Forest Trends, năm 2022, XK viên nén gỗ bùng nổ với lượng xuất xấp xỉ 4,9 triệu tấn, kim ngạch đạt gần 790 triệu USD, tăng gần gấp đôi về giá trị so với năm 2021 do giá viên nén tăng cao. Bước sang năm 2023, kim ngạch XK viên nén giảm nhẹ, đạt hơn 4,6 triệu tấn với giá trị gần 680 triệu USD (giảm 4,3% về lượng và 13,7% về giá trị so với năm 2022). So với giai đoạn tăng giá kỷ lục năm 2022, giá XK viên nén bình quân đã giảm liên tục dưới 140 USD/tấn trong năm 2023.
Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn là hai thị trường nhập khẩu (NK) viên nén lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỷ trọng 96% tổng lượng và 96,6% tổng kim ngạch XK cả nước. Trong năm 2023, Nhật Bản NK hơn 2,8 triệu tấn viên nén của Việt Nam, tương đương hơn 438 triệu USD (tăng 12,4% về lượng và 14,3% về giá trị so với năm 2022). Trong khi đó, Hàn Quốc chỉ NK hơn 1,7 triệu tấn viên nén, trị giá gần 214 triệu USD (giảm 24,5% về lượng và 43,3% về giá trị so với năm 2022). Nguyên nhân được chỉ ra là do các DN Hàn Quốc có thêm các nguồn cung khác, ví dụ như nguồn cung viên nén giá rẻ từ Nga.
Theo nhận định của Forest Trends, thị trường Nhật Bản tiếp tục đóng vai trò quan trọng đối với ngành viên nén Việt Nam trong thời gian tới. Các DN Việt Nam còn có cơ hội thay thế nguồn cung viên nén làm từ vỏ dầu cọ có nguồn gốc từ Indonesia có thể sẽ không đạt được chứng chỉ bền vững theo yêu cầu của thị trường Nhật Bản.
Dư địa sử dụng viên nén gỗ trong nước rất lớn
Tại Tọa đàm: "Vai trò của viên nén trong chuyển đổi nhiên liệu nồi hơi - Hướng tới nền sản xuất phát thải thấp tại Việt Nam" do Chi hội Viên nén (thuộc Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam - Viforest), Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam (VTA) và Tổ chức Forest Trends tổ chức hôm 5/4, TS. Tô Xuân Phúc, đại diện Forest Trends cho biết: Chính phủ Việt Nam cam kết mạnh mẽ với mục tiêu mức phát thải Net-Zero vào năm 2050. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ đã ban hành một số cơ chế, chính sách, trong đó có Nghị định 06/2022/NĐ-CP yêu cầu các cơ sở sản xuất có mức phát thải cao cũng như các Bộ, ngành phải giảm phát thải khí nhà kính.
Tuy nhiên, các cơ chế, chính sách hiện nay tập trung vào các cơ sở có mức phát thải cao, chủ yếu là ngành công nghiệp nặng như năng lượng, sản xuất hóa chất công nghiệp, vận tải… Những hoạt động hiện chưa được quan tâm là các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ trong lĩnh vực như dệt, nhuộm, chế biến bia, nước ngọt, hệ thống lò sấy… có sử dụng nồi hơi công nghiệp. Hiện nhiều cơ sở này sử dụng nguồn than đá để vận hành hệ thống nồi hơi.
“Mặc dù tới nay chưa có con số thống kê về số lượng, công suất cũng như tổng lượng nguyên liệu than đá đang được sử dụng để vận hành hệ thống nồi hơi này, nhưng các chuyên gia ước tính lượng than đầu vào đang được sử dụng là không nhỏ…” - ông Phúc nói.
Ông Trần Văn Lượng, Chủ tịch VTA dẫn nguồn từ các tổ chức kiểm định nồi hơi hàng năm và đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước về lao động cho biết, ước tính tại Việt Nam có khoảng 9.000 nồi hơi công nghiệp đang hoạt động, chủ yếu sử dụng nguồn than đá để vận hành. Thống kê cho thấy, chỉ có khoảng 5% tổng lượng cung viên nén gỗ hiện đang được sử dụng nội địa, chủ yếu đưa vào hệ thống nồi hơi của các cơ sở sản xuất quy mô nhỏ.
Theo Chủ tịch VTA, mặc dù Chính phủ chưa yêu cầu các cơ sở quy mô nhỏ này phải giảm phát thải, nhưng một số cơ sở đã tiên phong, tự nguyện thay thế một phần hoặc toàn bộ lượng than đá sử dụng cho hệ thống nồi hơi của mình sang viên nén gỗ. Nhiều cơ sở đã và đang thực hiện việc chuyển đổi này nằm trong chuỗi cung toàn cầu, như các nhà cung ứng cho các hãng hàng lớn như Adidas, Nike, Samsung...; một số cơ sở nằm trong các khu công nghiệp nơi có các cam kết về phát thải thấp, chuyển đổi xanh. Theo nhận định của các chuyên gia, việc chuyển đổi nguồn than đầu vào của các cơ sở này sang các nguồn nhiên liệu sạch hơn có tiềm năng lớn trong việc giảm phát thải ở quy mô quốc gia.
Tuy nhiên, từ mong muốn đến thực tế triển khai là cả một vấn đề. Để chuyển nồi hơi đốt sang nhiên liệu sinh khối (biomass) DN cần có vốn đầu tư cho việc chuyển đổi; đặc biệt cần có các tiêu chuẩn, quy chuẩn về chế tạo nồi hơi đốt biomas cũng như năng lực thiết kế, chế tạo của các nhà chế tạo nồi hơi.
Cùng với việc bảo đảm nguồn cung ổn định, một trong những thách thức nữa cho cả DN sản xuất viên nén cũng như các DN sử dụng nồi hơi là thị trường carbon nội địa chưa hình thành nên chưa tạo thành động lực cho DN chuyển đổi. Tuy nhiên, Chính phủ đang thiết kế các cơ chế, chính sách cần thiết để xây dựng thị trường tín chỉ carbon trong nước. Với cam kết Net-Zero, dư địa cho việc sử dụng viên nén gỗ tại thị trường nội địa là rất lớn.