Công nghệ vũ trụ: Câu chuyện không ở tương lai
Các công nghệ vũ trụ tưởng chừng như là 'chuyện của các cường quốc', hay 'công nghệ của tương lai' , trên thực tế lại liên quan sát sườn tới an ninh và sự phát triển của Việt Nam.

Công nghệ vũ trụ đang định hình lại cách thức hoạt động của các chuỗi cung ứng trên Trái đất. (Nguồn: Aeroaegis)
Theo số liệu mới nhất, ngành Chuỗi cung ứng, vận tải và di động (SCTM) được công nghệ vũ trụ hỗ trợ đã đạt 630 tỷ USD năm 2023 và dự kiến sẽ tăng vọt lên 1,8 nghìn tỷ USD vào năm 2035. Con số này phản ánh một thực tế: Công nghệ vũ trụ đang định hình lại cách thức hoạt động của các chuỗi cung ứng trên Trái đất. Nhiều tỷ phú công nghệ hàng đầu thế giới đã đổ vốn mạnh mẽ vào lĩnh vực này, cho thấy tiềm năng thương mại khổng lồ.
Việc thương mại hóa không gian đang tạo ra những mô hình kinh doanh hoàn toàn mới. Các công ty như Space Forge đang thí điểm sản xuất bán dẫn trong môi trường không trọng lực, có thể tạo ra những sản phẩm chất lượng cao hơn nhiều so với sản xuất trên mặt đất. Công nghệ in 3D trong không gian cũng đang thay đổi cách sản xuất. Thay vì vận chuyển linh kiện nặng nề lên không gian, con người có thể in linh kiện ngay tại chỗ, giảm chi phí và thời gian.
Nắm bắt cơ hội
Việt Nam, không ngoài dòng chảy của thời đại, đã tích hợp sâu vào hệ sinh thái công nghệ vũ trụ toàn cầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tại các cảng thông minh ở TP. Hồ Chí Minh, hệ thống định vị GPS vệ tinh đang theo dõi từng tàu hàng, tối ưu hóa lịch trình và giảm thiểu chi phí logistics. Rất nhiều chuỗi logistics của Việt Nam sang Trung Quốc có sử dụng tín hiệu từ hệ thống vệ tinh Bắc Đẩu của Trung Quốc. Những nhà máy của Samsung tại Việt Nam phụ thuộc vào hệ thống thông tin vệ tinh để bảo đảm truyền tải dữ liệu liền mạch giữa các cơ sở sản xuất và đối tác toàn cầu.
Các ngành địa chất, khí tượng bản đồ của Việt Nam sử dụng kết hợp cả dữ liệu từ hai hệ thống định vị GPS của Mỹ và Gallileo của Liên minh châu Âu (EU). Trong ngành dệt may, các doanh nghiệp tham khảo dữ liệu thời tiết từ vệ tinh để lập kế hoạch sản xuất và vận chuyển trong mùa mưa bão.
Trong nông nghiệp, Việt Nam đang ứng dụng ảnh vệ tinh để giám sát sức khỏe cây trồng và dự báo năng suất, giúp nông dân và doanh nghiệp nông sản quản lý tồn kho hiệu quả hơn, giảm lãng phí trong chuỗi cung ứng thực phẩm. Các thử nghiệm giao hàng bằng phương tiện bay không người lái (drone) ở vùng nông thôn cũng hoàn toàn dựa vào hệ thống định vị vệ tinh.
Đối với Việt Nam, vị trí địa lý chiến lược giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương có thể trở thành lợi thế lớn trong việc phát triển các trạm mặt đất và cảng vũ trụ. Với 3.260km bờ biển và nhiều hòn đảo, Việt Nam có tiềm năng lớn để tham gia vào hệ sinh thái công nghệ vũ trụ. Thêm vào đó, là một nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu, việc củng cố kinh tế vũ trụ và an ninh vũ trụ là yêu cầu thiết thực để duy trì sự bền vững của các chuỗi cung ứng mà Việt Nam tham gia.
Nguy cơ hiển hiện
Việc phụ thuộc vào công nghệ vũ trụ của bên ngoài luôn đối mặt nhiều nguy cơ và rủi ro. Theo điều tra của Reuters, một số nhân viên của Starlink tiết lộ, vào tháng 9/2022, tỷ phú Elon Musk đã chỉ đạo ngắt tín hiệu Starlink tại những khu vực Ukraine đang phản công ở Kherson và Donetsk, dẫn tới việc quân đội Ukraine mất liên lạc, gián đoạn điều khiển thiết bị bay không người lái (UAV) và pháo binh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến cục diện xung đột.
Ngoài ra, nguy cơ tấn công mạng vào các hệ thống vệ tinh cũng ngày càng gia tăng. Báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) năm 2025 nhấn mạnh, các cuộc tấn công mạng nhắm vào hạ tầng vũ trụ, bao gồm vệ tinh và trạm mặt đất, liên tục gia tăng, trong khi việc theo dõi và phát hiện các cuộc tấn công ngày càng khó khăn do tính phức tạp của hệ thống và đa dạng tác nhân tham gia.
Một cuộc tấn công mạng thành công có thể gây tê liệt các dịch vụ phụ thuộc vào vệ tinh như định vị, viễn thông, truyền dữ liệu, quản lý tàu biển và hàng không, cũng như hệ thống chuỗi cung ứng toàn cầu trong vài giờ thậm chí vài ngày. Chỉ một điểm yếu nhỏ cũng có thể gây nên hiệu ứng domino toàn cầu, khiến các dịch vụ quan trọng bị gián đoạn dây chuyền, kéo theo tổn thất kinh tế khổng lồ trên mặt đất.
“Công nghệ vũ trụ là một ngành công nghệ cao, được tích hợp từ nhiều ngành khoa học công nghệ khác nhau nhằm chế tạo và ứng dụng các phương tiện như vệ tinh, tàu vũ trụ, tên lửa đẩy, trạm mặt đất… để khám phá, chinh phục và sử dụng khoảng không vũ trụ vì lợi ích con người ”. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Để không bị bỏ lại phía sau
Trước bối cảnh đó, Đảng và Chính phủ đã có những chỉ đạo, định hướng lớn. Ngày 4/2/2021, “Chiến lược phát triển, ứng dụng khoa học và công nghệ vũ trụ đến năm 2030” được phê duyệt, mở đường cho sự phát triển về khoa học và công nghệ vũ trụ trong giai đoạn mới. Chính phủ mới đây đã đưa vấn đề công nghệ hàng không vũ trụ vào danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược của đất nước. Tuy nhiên, Việt Nam cần có những bước đi cụ thể hơn để triển khai những định hướng lớn này và không bị bỏ lại phía sau:
Thứ nhất, cần xác định vũ trụ không chỉ là lĩnh vực công nghệ mũi nhọn mà còn là một ngành kinh tế quan trọng, mở ra hàng loạt cơ hội phát triển từ vệ tinh, viễn thông cho đến các dịch vụ dữ liệu, ứng dụng dân sự và công nghiệp. Theo đó, cần xây dựng khung pháp lý phù hợp như luật pháp quản lý hoạt động vũ trụ, bảo vệ dữ liệu quốc gia, và khuyến khích đầu tư tư nhân vào lĩnh vực này. Điều này sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài phát triển dịch vụ vũ trụ tại Việt Nam.
Thứ hai, cần tập trung vào nâng cấp những hạ tầng và nhóm sản phẩm thiết yếu như trạm mặt đất và điều khiển vệ tinh, vệ tinh viễn thám và viễn thông tầm thấp, thiết bị bay không người lái.
Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục STEM và vũ trụ từ các cấp phổ thông cơ sở. Ở cấp đại học, các trường đại học chuyên ngành phù hợp cần liên kết với các đối tác quốc tế để mở các chương trình đào tạo về kỹ thuật vũ trụ, quản lý chuỗi cung ứng thông minh, và an ninh mạng vũ trụ. Đồng thời, cần có chính sách thu hút nhân tài quốc tế và khuyến khích người Việt học tập, làm việc tại các tổ chức vũ trụ quốc tế về phục vụ đất nước.
Thứ tư, cần tham gia tích cực vào các định chế liên quan quản trị vũ trụ quốc tế, tham gia tích cực trong các trao đổi quốc tế nhằm xây dựng các tiêu chuẩn, thỏa thuận quốc tế liên quan trong lĩnh vực này.
Thứ năm, phát triển năng lực an ninh mạng vũ trụ. Việt Nam cần xây dựng lực lượng chuyên môn tinh nhuệ để bảo vệ hạ tầng thiết yếu liên quan đến vũ trụ, bảo vệ đường truyền, và tăng cường an ninh, ứng phó với các mối đe dọa an ninh mạng từ không gian. Đồng thời, phát triển quan hệ đối tác với nhiều quốc gia, đa dạng hóa việc tiếp thu các tín hiệu vệ tinh để tránh phụ thuộc chiến lược vào một nguồn tín hiệu duy nhất.
Thứ sáu, cần tính tới một chiến lược xác lập vị trí của Việt Nam trong chuỗi cung ứng công nghệ vũ trụ, có thể là một khâu trong lắp ráp, kiểm thử, đóng gói, tận dụng nguồn nhân lực chất lượng cao đã quen với các dây chuyền sản xuất bán dẫn, hoặc phát triển các ứng dụng để tận dụng dữ liệu vệ tinh tạo ra các giải pháp cho sản xuất và tiện ích cho nhà quản lý và người dân.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, sự phát triển của chuỗi cung ứng toàn cầu trong thập niên tới sẽ phụ thuộc nhiều vào công nghệ vũ trụ. Những quốc gia không chủ động tham gia sẽ đối mặt với nguy cơ bị phụ thuộc hoàn toàn vào các cường quốc công nghệ. Vấn đề không phải là liệu Việt Nam có nên tham gia vào cuộc đua công nghệ vũ trụ hay không, mà là làm thế nào để tham gia một cách hiệu quả, tận dụng những cơ hội và phát huy những thế mạnh phục vụ mục tiêu vươn mình của đất nước.
Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/cong-nghe-vu-tru-cau-chuyen-khong-o-tuong-lai-325067.html