'Cú hích' cho công nghiệp văn hóa và quảng bá hình ảnh quốc gia

Bộ sưu tập của nhạc sĩ Hoàng Vân được UNESCO ghi vào danh mục Di sản Tư liệu thế giới là một sự kiện quan trọng. TS Bùi Hoài Sơn, đại biểu chuyên trách tại Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội đã có cuộc trao đổi với Báo Điện tử Tiếng nói Việt Nam về vấn đề này.

TS Bùi Hoài Sơn.

“Bộ sưu tập của nhạc sĩ Hoàng Vân được UNESCO ghi danh là Di sản Tư liệu thế giới như một “cú hích” đối với việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản âm nhạc trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp văn hóa hiện nay”

PV: Thưa ông, bộ sưu tập hơn 700 tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Vân được UNESCO ghi danh là Di sản Tư liệu thế giới có giá trị như thế nào đối với việc lan tỏa, truyền bá các giá trị âm nhạc, văn hóa, lịch sử của dân tộc thông qua những tác phẩm âm nhạc?

TS Bùi Hoài Sơn: Việc bộ sưu tập hơn 700 tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Vân được UNESCO ghi danh là Di sản Tư liệu thế giới là một cột mốc vô cùng đặc biệt, không chỉ với âm nhạc Việt Nam, mà còn với cả tiến trình gìn giữ và phát huy di sản văn hóa dân tộc.

Khác với các loại hình truyền thống như quan họ, ca trù hay xoan - vốn được định vị trong không gian nghi lễ, cộng đồng và đòi hỏi sự “học để thưởng thức” - âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Vân lại là thứ âm nhạc sống giữa lòng nhân dân, hòa vào từng bước chuyển mình của đất nước suốt hơn nửa thế kỷ. Những tác phẩm của ông là sự kết tinh tinh tế giữa truyền thống và hiện đại, giữa chất dân tộc và tinh thần thời đại, từ những bản hùng ca cách mạng như “Hò kéo pháo”, “Bài ca xây dựng”, đến những khúc tình ca sâu lắng như “Quảng Bình quê ta ơi”, “Tình ca Tây Nguyên”...

Giá trị đặc biệt của di sản âm nhạc Hoàng Vân nằm ở chỗ: Ông đã dùng âm nhạc để kể lại một phần lịch sử dân tộc - một cách kể vừa xúc động, vừa phổ thông, vừa mang tính nghệ thuật cao. Mỗi bản nhạc là một lát cắt văn hóa - lịch sử, phản ánh tâm thức, khát vọng và bản sắc Việt Nam trong những thời khắc quan trọng của đất nước. Và bởi gần gũi với đời sống đương đại, nên di sản này có sức lan tỏa mạnh mẽ, tạo ra sự cộng hưởng cảm xúc giữa các thế hệ - từ những người từng sống qua chiến tranh đến lớp trẻ hôm nay đang tìm kiếm cội nguồn và bản sắc trong thế giới toàn cầu hóa.

Việc UNESCO ghi danh không chỉ là sự công nhận cho một cá nhân - nhạc sĩ Hoàng Vân - mà còn là sự khẳng định giá trị văn hóa, nghệ thuật và lịch sử của cả một thời kỳ. Đây là một hình thức “ngoại giao văn hóa” hiệu quả, khi thế giới lắng nghe Việt Nam qua chính những giai điệu chân thật, sống động và đậm đà bản sắc như thế.

Những tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Vân là sự kết tinh tinh tế giữa truyền thống và hiện đại, giữa chất dân tộc và tinh thần thời đại. (Ảnh: GĐNV cung cấp)

Những tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Vân là sự kết tinh tinh tế giữa truyền thống và hiện đại, giữa chất dân tộc và tinh thần thời đại. (Ảnh: GĐNV cung cấp)

PV: Việc lần đầu tiên Việt Nam có một di sản âm nhạc thuộc thể loại tân nhạc có tạo nên động lực thúc đẩy công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực di sản âm nhạc của Việt Nam, thưa ông?

TS Bùi Hoài Sơn: Chắc chắn rồi. Việc lần đầu tiên một bộ sưu tập tân nhạc - cụ thể là các tác phẩm của nhạc sĩ Hoàng Vân - được ghi danh là Di sản tư liệu thế giới mang ý nghĩa rất lớn, không chỉ về mặt văn hóa, tinh thần, mà còn mở ra một hướng đi mới đầy triển vọng cho công nghiệp văn hóa Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực âm nhạc và di sản âm nhạc.

Chúng ta đều biết, âm nhạc là loại hình nghệ thuật dễ lan tỏa, dễ đi vào lòng người, có khả năng tạo ra kết nối cảm xúc mạnh mẽ vượt qua biên giới ngôn ngữ và lãnh thổ. Trong kỷ nguyên số, với sự hỗ trợ của công nghệ, âm nhạc càng trở nên linh hoạt, dễ tiếp cận, dễ sáng tạo, dễ phân phối và dễ thương mại hóa. Điều đó khiến âm nhạc trở thành một trong những trụ cột tiềm năng nhất của công nghiệp văn hóa - một ngành kinh tế mang lại giá trị gia tăng cao và có khả năng định hình hình ảnh quốc gia.

Sự kiện ghi danh này giống như một “cú hích” quan trọng và mạnh mẽ, giúp chúng ta định vị âm nhạc không chỉ là nghệ thuật biểu cảm, mà còn là tài sản văn hóa, tài sản có thể phát triển thành sản phẩm, dịch vụ trong chuỗi giá trị sáng tạo. Những bản nhạc của Hoàng Vân hoàn toàn có thể được chuyển thể thành sách giáo dục âm nhạc, phim tài liệu, chương trình truyền hình, vở diễn sân khấu, nhạc kịch, trò chơi, sản phẩm du lịch văn hóa… nếu được đầu tư bài bản và có chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa đúng đắn.

Điều quan trọng là di sản âm nhạc khi được số hóa, gắn với dữ liệu lớn, và đưa vào hệ sinh thái sáng tạo sẽ không còn nằm yên trong kho lưu trữ, mà có thể “hồi sinh” và “tái sinh” trong đời sống đương đại. Như vậy, chúng ta vừa tôn vinh được giá trị nghệ thuật và văn hóa, vừa tạo ra giá trị kinh tế - xã hội đúng như tinh thần mà Đảng ta đã xác định: Văn hóa không chỉ là nền tảng tinh thần mà còn là động lực phát triển đất nước.

Thành công bước đầu này là một minh chứng rõ ràng: Nếu chúng ta biết nhận diện, bảo tồn và phát triển di sản bằng tư duy công nghiệp văn hóa thì hoàn toàn có thể biến những giá trị vô hình thành những thành tựu hữu hình, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và quảng bá hình ảnh quốc gia.

Âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Vân chính là một “bản giao hưởng lịch sử” sống động, ghi lại nhịp đập của dân tộc Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. (Ảnh: GĐNV cung cấp)

Âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Vân chính là một “bản giao hưởng lịch sử” sống động, ghi lại nhịp đập của dân tộc Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ. (Ảnh: GĐNV cung cấp)

PV: Thông qua những di sản âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Vân, một “bản giao hưởng” Việt Nam đa dạng, rực rỡ sắc màu âm nhạc trong suốt giai đoạn lịch sử quan trọng của đất nước được xướng lên trong kho tàng Di sản Tư liệu thế giới. Điều này có giá trị ra sao đối với việc quảng bá hình ảnh Việt Nam?

TS Bùi Hoài Sơn: Tôi cho rằng, âm nhạc của nhạc sĩ Hoàng Vân chính là một “bản giao hưởng lịch sử” sống động, ghi lại nhịp đập của dân tộc Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ, từ những năm kháng chiến gian khổ đến thời kỳ kiến thiết, xây dựng đất nước và đổi mới hội nhập. Và chính sự ghi danh bộ sưu tập này vào Danh mục Di sản Tư liệu thế giới của UNESCO là một cách để thế giới lắng nghe, cảm nhận và thấu hiểu Việt Nam không chỉ qua sử sách, mà qua âm nhạc - một ngôn ngữ không biên giới.

Giá trị lớn nhất ở đây là khả năng kể chuyện quốc gia bằng nghệ thuật. Mỗi ca khúc trong di sản của Hoàng Vân là một chương sử ca, từ “Hò kéo pháo”, “Quảng Bình quê ta ơi”, “Tình yêu Hà Nội”, đến “Người chiến sĩ ấy”, “Tôi là người thợ lò”… Những tác phẩm này không chỉ phản ánh chân thực đời sống, tâm trạng, lý tưởng và vẻ đẹp con người Việt Nam trong từng thời kỳ, mà còn thể hiện bản lĩnh văn hóa của một dân tộc dù trải qua chiến tranh, đói nghèo nhưng vẫn giữ được khát vọng, niềm tin và vẻ đẹp tâm hồn.

Khi UNESCO công nhận bộ sưu tập ấy là Di sản Tư liệu thế giới, tức là họ công nhận rằng ký ức lịch sử của Việt Nam - được lưu giữ qua âm nhạc - có giá trị phổ quát đối với nhân loại. Điều này giúp Việt Nam củng cố vị thế trên bản đồ văn hóa thế giới không chỉ bằng di tích vật thể hay lễ hội truyền thống, mà bằng chính những sáng tạo nghệ thuật hiện đại gắn liền với lịch sử dân tộc.

Đây là cơ hội rất lớn để quảng bá hình ảnh Việt Nam như một quốc gia giàu bản sắc, đa dạng về văn hóa, có chiều sâu lịch sử và có khả năng sản sinh những giá trị nghệ thuật có tầm vóc toàn cầu. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta cần xây dựng chiến lược quảng bá quốc gia bằng văn hóa, trong đó âm nhạc, nhất là những “bản giao hưởng lịch sử” như của Hoàng Vân, đóng vai trò là “sứ giả mềm” đưa Việt Nam ra thế giới một cách đầy tự hào và bản lĩnh.

TS âm nhạc Lê Y Linh, con gái nhạc sĩ Hoàng Vân.

Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO có những tiêu chí và lộ trình rất rõ ràng về việc bảo vệ và phát huy Di sản tư liệu sau khi được vinh danh. Vậy nên bây giờ, đúng như những câu hát của nhạc sĩ Hoàng Vân: “Đường lớn đã mở, đi tới tương lai, ngày mai đang bắt đầu từ ngày hôm nay”. Chúng ta đã, đang và sẽ tiếp tục công việc bảo vệ và phát huy giá trị âm nhạc Hoàng Vân để lưu giữ, bảo vệ và lan tỏa, để những di sản của ông có thể dễ dàng tiếp cận tới công chúng.

Đối với các nghệ sĩ trẻ, thông qua di sản âm nhạc của Hoàng Vân, họ sẽ tiếp cận với những chuẩn mực âm nhạc của một giai đoạn lịch sử đất nước. Trên cơ sở ấy, nghệ sĩ trẻ có thể lấy cảm hứng để làm cho những sáng tác của mình đẹp hơn và có ý nghĩa hơn.

PV: Vậy chúng ta phải làm gì để bảo tồn, phát huy giá trị của di sản âm nhạc Việt Nam nói chung và bộ sưu tập của nhạc sĩ Hoàng Vân nói riêng trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp văn hóa ở Việt Nam hiện nay?

TS Bùi Hoài Sơn: Trước hết, cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu số hóa bài bản, khoa học và dễ tiếp cận cho toàn bộ di sản âm nhạc, trong đó bộ sưu tập của Hoàng Vân là điểm khởi đầu. Việc số hóa không chỉ giúp lưu giữ lâu dài mà còn tạo điều kiện để đưa di sản này đến gần hơn với công chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ. Các nền tảng số, ứng dụng giáo dục, các kênh truyền thông xã hội… đều có thể trở thành “sân khấu” mới cho di sản âm nhạc Việt Nam nếu chúng ta biết cách tổ chức và khai thác.

Thứ hai, cần đưa di sản âm nhạc vào hệ sinh thái sáng tạo - nơi mà các nhạc sĩ, nghệ sĩ đương đại có thể tiếp cận, lấy cảm hứng và chuyển hóa thành những sản phẩm văn hóa mới: từ hòa âm phối khí lại các bản nhạc, đến các sáng tác mới lấy cảm hứng từ tác phẩm âm nhạc cũ, hay làm phim, nhạc kịch, video nghệ thuật, gameshow… Tức là làm cho di sản “sống” bằng ngôn ngữ của thời đại.

Thứ ba, cần có chính sách và nguồn lực đầu tư xứng đáng. Công nghiệp văn hóa không thể phát triển nếu thiếu hành lang pháp lý rõ ràng, cơ chế hỗ trợ hiệu quả và sự đồng hành từ cả Nhà nước, doanh nghiệp, giới sáng tạo và cộng đồng. Những mô hình hợp tác công - tư (PPP) trong bảo tồn và phát triển di sản âm nhạc nên được thúc đẩy, vừa để huy động nguồn lực xã hội hóa, vừa tạo động lực đổi mới sáng tạo.

Cuối cùng, cần giáo dục văn hóa và âm nhạc như một phần không thể thiếu trong quá trình hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại.

PV: Trân trọng cảm ơn ông!

Thư Vũ/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/van-hoa/di-san/cu-hich-cho-cong-nghiep-van-hoa-va-quang-ba-hinh-anh-quoc-gia-post1218955.vov