Cửa ô - nơi 'bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội'

Những cửa ô ở Hà Nội là chốn đi về của người dân Thăng Long. Nay có cửa ô còn, có cái đã mất chìm theo ký ức, nhưng ngày xưa đó là cửa ngõ đi vào kinh thành nên đã soi rọi sự sống động của lịch sử, văn hóa và cuộc sống của người dân Thăng Long trải dài theo hành trình phát triển.

Câu chuyện về những cửa ô

Họa sĩ Tạ Tỵ khi ở phương Nam nhớ về Hà Nội, ông đã viết bài thơ: “Thương về năm cửa ô xưa”, trong đó ông liệt kê Hà Nội với 36 phố phường và 5 cửa ô: “Quan Chưởng đêm tàn dẫn lối/Đê cao hun hút chợ Dừa/Cầu Dền mưa dầm lầy lội/Gió về đã buốt lòng chưa?/Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ/Nhị Hà lấp lánh sao thưa/Cầu Giấy đường hoa phượng vĩ/Nhớ nhung biết mấy cho vừa…”.

Vậy những cửa ô có từ bao giờ và Hà Nội thực sự có bao nhiêu cửa ô? Chúng ta cùng ngược dòng lịch sử để tìm câu trả lời.

Theo “Bắc thành dư địa chí” soạn hồi đầu thế kỷ XIX, Hà Nội từng có 21 cửa ô. Khi nhà Nguyễn hạ cấp kinh thành Thăng Long xuống chỉ còn là Bắc thành thuộc tỉnh Hà Nội, số cửa ô chỉ còn 16. Trong bản đồ tòa thành Hà Nội (thành đất) do hai ông Lê Đức Lộc và Nguyễn Công Tiến vẽ năm 1831 có ghi vị trí và tên của 16 cửa ô. Ngoài ra, trên tòa thành đất bao bọc vòng ngoài còn xác định được 2 cửa ô là Trung Hiền (ở ngã tư Bạch Mai - Đại La - Trương Định - Minh Khai) và cửa ô Tây Dương (ở trước cây Cầu Giấy bắc qua sông Tô).

Năm 1866, đời Vua Tự Đức, bản đồ vẽ tỉnh Hà Nội thì chỉ còn 15 cửa ô và không còn cửa ô Nhân Hòa. Tên gọi các cửa ô được đặt theo tên các thôn xã ở đó nên số lượng và tên gọi các cửa ô cũng thay đổi theo tên các làng xã xưa ở Hà Nội, như cửa ô Thịnh Quang còn gọi là ô Cầu Dừa.

Và điều đáng chú ý là nhiều cửa ô đã mang tên mới: Yên Hòa thành Yên Phụ, Yên Tĩnh thành Yên Định, Thạch Khối thành Nghĩa Lập, Phúc Lâm thành Tiền Trung, Tây Luông thành Trường Long, Thanh Lãng thành Lãng Yên, Yên Ninh thành Thịnh Yên, Kim Hoa thành Kim Liên, Thịnh Quang thành Thịnh Hào. Và số lượng 15 cửa ô vẫn giữ nguyên trên bản đồ Hà Nội năm 1873, tên các cửa ô được thể hiện bằng hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Pháp và được đánh số từ 01 đến 15.

Ô Cựu Lâu (Tây Luông) năm 1873, trong cuốn Hà Nội giai đoạn 1873 -1888 của André Masson. Nay ở vị trí quảng trường trước cửa Nhà hát Lớn.

Trong quá trình quy hoạch Hà Nội vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX của người Pháp, các cửa ô Hà Nội đã dần bị phá hủy, trong đó phải kể đến việc người Pháp quy hoạch xây dựng quanh khu vực ô Cầu Giấy và phá bỏ cửa ô này vào năm 1893.

Ô Cầu Giấy ở phía Tây kinh thành Thăng Long, dân cư đông. Vị trí cửa ô này thuộc làng Thanh Bảo nên có tên là cửa ô Thanh Bảo. Từ thế kỷ XIX dân làng giấy ở Yên Hòa đã dựng ở cửa ô những cái lán bày giấy để bán thường gọi là những cái cầu hàng giấy. Do đó, tên cửa ô Thanh Bảo cũng gọi là cửa ô Cầu Giấy. “Chữ Cầu ở đây là cầu bán hàng (cầu chợ) chứ không mang nghĩa là cây cầu bắc qua sông. Vị trí ô Cầu Giấy là ở chỗ bến xe ô tô Kim Mã, là giao điểm của phố Sơn Tây và phố Nguyễn Thái Học ngày nay”, nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc cho biết.

Trong cuộc họp ngày 27/6/1891, Hội đồng Thành phố Hà Nội đã quyết định lựa chọn một khu đất rộng gần ngay cửa ngõ Sơn Tây (tức ô Cầu Giấy) để làm khu nghĩa địa này. Đây chính là lý do cửa ô này bị phá bỏ, phần nữa do cửa ô Cầu Giấy xuống cấp nghiêm trọng, có nguy cơ bị đổ, nguy hiểm cho người dân hàng ngày qua lại, cơ quan chuyên môn đã đề nghị Thành phố phá bỏ cửa ô này.

Tại Ô Cầu Giấy, các sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam tiếp nhận bàn giao của đối phương.

Lịch sử những cửa ô

Theo các nhà nghiên cứu lịch sử, địa lý, Thành Thăng Long - Hà Nội được xây dựng theo kiểu “tam trùng thành quách” (nghĩa là có ba vòng thành bao bọc lẫn nhau). Vòng thành ngoài là Đại La thành, rộng lớn nhất vốn là một lũy đất mượn thế theo dòng chảy của các con sông (Hồng, Tô Lịch, Kim Ngưu) mà các triều đại phong kiến Việt Nam dựng lên các con đê với chức năng vừa chống ngập lụt, vừa làm chức năng quân sự. Đầu thời Mạc vòng thành Đại La được xây dựng một cách kiên cố hơn với thành đất, lũy tre và hào nước bảo vệ.

Cửa ô bắt đầu manh nha hình thành từ thời Chúa Trịnh. Theo sử sách ghi chép, năm 1749, Chúa Trịnh Doanh đã cho đắp một tòa thành đất bao bọc khu Hoàng thành Thăng Long, xung quanh bên ngoài có hào nước sâu cắm chông bảo vệ. Trên thân thành đất mở ra 8 cửa để cho người dân qua lại. Kiến trúc mỗi cửa được thiết kế gồm một cửa chính và hai ô cửa phụ hai bên, trên cửa có vọng lâu canh gác. Tất cả 8 cửa đều có kích thước, hình dạng giống nhau.

Thời xưa, đây là các cửa ra vào kinh thành. Ban đêm, tại các cửa ô đều có tuần phiên canh gác. Một điểm đặc biệt khác là, phần lớn các cửa ô đều thông ra sông Hồng và sông Tô Lịch. Phía tây có 2 cửa, phía nam có 3 cửa ra sông Tô Lịch; lối ra sông Hồng có 11 cửa. Với cách mở cửa ô như vậy, cho chúng ta thấy cách giao lưu với thế giới bên ngoài của Thăng Long xưa bằng đường sông chủ yếu. Đây chính là sự phát triển giao thương, buôn bán dọc sông Hồng cho đến vào trong khu phố cổ.

Năm 1888, người Pháp chiếm Hà Nội, họ thành lập “khu nhượng địa” và gọi là Thành phố Hà Nội. Như vậy, ngoài tỉnh Hà Nội thành lập thời Minh Mạng còn có Thành phố Hà Nội thuộc Pháp. Địa giới Thành phố Hà Nội (thuộc Pháp) hẹp hơn địa giới kinh đô Thăng Long cũ. Nó bắt đầu từ dốc Yên Hoa (nay là Yên Phụ) theo chiều kim đồng hồ xuống đến Cơ Xá Nam (tương ứng với cảng Hà Nội hiện nay), sau đó vòng ra Cửa ô Thanh Bảo (tương ứng với khu vực bến xe Kim Mã) rồi vòng trở lại dốc Yên Hoa.

Năm 1889, người Pháp đã xây dựng hệ thống an ninh để bảo vệ của Thành phố Hà Nội. Họ thành lập khu “ngoại thành” Hà Nội gồm các xã của huyện Vĩnh Thuận và một số xã của huyện Thanh Trì. Cụ thể là từ Yên Phụ vòng ra Nhật Tân, chạy ra Cầu Giấy theo sông Tô Lịch đến khu vực Lương Yên ngày nay.

Sơ đồ các cửa ô trên cơ sở bản đồ Hà Nội 1831. (Ảnh trong bài: TL)

Từ khi lập ra khu “ngoại thành”, chính quyền Pháp lập thêm đồn chốt ở các con đường chính từ ngoại thành dẫn vào trong phố. Các chốt chính được lập tại chợ Bưởi, Cầu Giấy, đầu phố Yên Hoa, ngã tư Vọng và đầu phố Bạch Mai ngày nay. Họ cấm không cho ăn mày ăn xin vào trong phố, kiểm tra thẻ của những người lao động tự do vào làm công trong nội đô, ai không có thẻ là không cho vào.

Bức lũy Đại La xây năm 1749 được người Pháp xác định giới hạn quy ước của đô thị Hà Nội. Lá thư của Thống sứ Bắc Kỳ gửi Đốc lý Hà Nội ngày 30/12/1889 đã nhấn mạnh: “Bức lũy cũ phải được coi như giới hạn của Thành phố”. Chúng cũng là những con đê cao hơn phố xung quanh, nhưng nay đã bị bạt đi khá nhiều như: Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt, La Thành, Giảng Võ, Ngọc Hà, Hoàng Hoa Thám… với tổng chiều dài 16km. Các cửa ô qua dãy lũy này có vai trò quan trọng để các nhà quy hoạch xác định hướng giao thông chính và vùng dân cư, đồng thời trở thành nét đặc trưng của Hà Nội. Bây giờ chúng tương đương với khu Vành đai 1 của Thủ đô.

Ngày nay, dấu vết lịch sử các cửa ô của Thăng Long - Hà Nội gần như không còn dấu tích, chỉ còn lại duy nhất ô Quan Chưởng (tên chữ Hán là Đông Hà môn). Theo ghi chép, cổng được xây dựng năm 1749 để phòng thủ kinh thành ở mặt sông Hồng. Cổng có 1 cửa chính trên có tháp canh và hai cửa phụ hai bên, phía trên để trống nhưng có lan can trang trí. Trên tường cửa chính có gắn một tấm bia đề năm Tự Đức thứ 34 (1882) cấm lính gác đòi tiền người qua lại… Cổng này có nguy cơ bị phá vào năm 1906 nhưng may mắn được Trường Viễn Đông Bác Cổ cứu thoát.

Những cửa ô xưa như ô Đông Mác, Yên Phụ, Cầu Dền, Đồng Lầm, Chợ Dừa, Cầu Giấy,... nay đã trở thành những nút giao thông hoặc những khu vực quan trọng của Thủ đô. Tuy vậy, hình ảnh cửa ô xưa vẫn hiện hữu đâu đó như những kí ức không thể nào quên trong tâm thức của bao thế hệ người Hà Nội. Dấu ấn đặc biệt trong thế kỷ 20 là các đoàn quân Bộ đội Cụ Hồ, các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô từ các cửa ô xưa tiến về tiếp quản Hà Nội vào tháng 10/1954.

Cửa ô - một kiến trúc rất nhỏ bé trong tổng thể các công trình kiến trúc nổi tiếng của Hà Nội qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhưng lại lưu giữ trong mình một câu chuyện thật dài của Hà Nội. Đó là lịch sử, là chính trị, là văn hóa, là đời sống xã hội. Cửa ô gần gũi, thân thương trong kí ức bao người, nhắc ta về quá khứ vàng son của cha ông, để ta thêm trân trọng hiện tại và dựng xây tương lai, như lời thơ của Tạ Tỵ trong “Thương về năm cửa ô xưa”: “Cửa ô ơi, cửa ô/Năm ngả đường đất nước/Trôi từ vạn nẻo sông hồ/Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội/Gục đầu nhớ tiếng võng đưa”.

Tuấn Ngọc

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/cua-o-noi-bon-huong-do-vao-long-ha-noi.html