Cuộc chiến tàu ngầm của Đức trong Thế chiến thứ nhất
Ngày 22/9/1914, tàu ngầm Đức U-9 đã đánh chìm ba thiết giáp hạm Abukir, Cressy và Hog của Anh tại căn cứ hải quân ở Scapa Flow. Trung úy Johann Spies, trợ lý của thuyền trưởng U9 Otto Weddigen, mô tả vụ tai nạn của tàu Cressy như sau: 'một đám khói bốc lên từ mạn tàu xấu số, rồi một cột nước trắng khổng lồ vọt lên. con tàu với 4 ống khói bắt đầu nghiêng dần'. Sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu cuộc chiến tàu ngầm của nước Đức trong Thế chiến thứ nhất.
Ngày 2/11/1914, vi phạm các quy định quốc tế tồn tại trước đó, Anh tuyên bố toàn bộ Biển Bắc là vùng chiến sự. Điều này có nghĩa là một cuộc phong tỏa biển đối với nước Đức, khiến các tàu ngầm Đức bắt đầu tấn công các tàu thương mại Anh.
Nhìn chung, năm 1914, hoạt động tàu ngầm của cả hai bên chủ yếu tập trung vào việc tiêu diệt các tàu chiến. Ngày 20/10/1914, tàu ngầm U-17 đã đánh chìm tàu thủy Glitra của Anh, đây là con tàu thương mại đầu tiên bị phá hủy trong Thế chiến thứ nhất. Glitra bị chìm gần bờ biển Na Uy. Tổng cộng, từ tháng 10 đến tháng 12/1914, có 300.000 tấn hàng hóa thương mại đã bị phá hủy.

Thuyền trưởng tàu ngầm U9 Otto Weddigen.
Ngày 13/1/1915, Bộ Hải quân Anh đã ban hành lệnh bí mật cho phép các tàu thương mại Anh treo cờ của các quốc gia trung lập. Cùng ngày, công việc lắp đặt đại pháo trên các tàu thương mại bắt đầu được tiến hành.
Ngay từ cuối năm 1914, Bộ Tổng tham mưu Hải quân Đức đã xây dựng một kế hoạch chiến tranh tàu ngầm tàn khốc như một biện pháp đáp trả cuộc phong tỏa biển của phe Hiệp ước. Mọi tàu thuyền gặp phải trong vùng chiến sự, không phân biệt cờ hiệu và mục đích, đều phải bị đánh chìm.
Nhưng mãi đến ngày 4/2/1915, Đức mới tuyên bố các vùng biển xung quanh Anh là khu vực quân sự và thông báo rằng kể từ ngày 18/2, tất cả tàu thương mại Anh gặp phải các tàu chiến Đức (tàu ngầm) ở vùng biển này sẽ bị tiêu diệt mà không có đảm bảo nào về việc cứu vớt thủy thủ đoàn và hành khách. Trước thời hạn này, Đức không thể bắt đầu chiến tranh tàu ngầm vì thiếu tàu ngầm. Đến ngày 1/2/1915, nước này chỉ có 27 tàu ngầm đang hoạt động, trong đó có 8 chiếc cũ. 26 tàu ngầm mỗi chiếc 800 tấn, 4 tàu ngầm rải mìn cỡ lớn và 32 tàu ngầm nhỏ (120 tấn) đã được đóng để hoạt động ở phía tây nam Biển Bắc và ngoài khơi bờ biển Flanders.
Trong tuần đầu tiên sau khi tuyên chiến, chỉ có 5 tàu ngầm Đức có thể ra khơi. Các tàu trung lập gặp phải trong vùng chiến sự, do người Anh lạm dụng cờ hiệu trung lập, sẽ đối mặt với nguy hiểm lớn, như nước Đức đã cảnh báo trong thông điệp tháng 2. Tuy nhiên, không có lời hứa nào đảm bảo sẽ đánh chìm chúng vô điều kiện.

Đô đốc Henning von Holtzendorff.
Ngày 12/2, tức là trước khi cuộc phong tỏa bắt đầu, Đại sứ Mỹ tại Berlin, ông John Gerard, đã trao cho Bộ trưởng Ngoại giao Đức Gottlieb von Jagow một bản công hàm của chính phủ Mỹ, trong đó đánh giá tình hình phát sinh là "đáng tiếc", đồng thời nhấn mạnh rằng "chính phủ Hoa Kỳ buộc phải yêu cầu chính phủ Đế quốc Đức chịu trách nhiệm nghiêm khắc về những hành động của lực lượng hải quân nước này".
Ngày 14/2, Thủ tướng Đức Bethmann Hollweg đã ban hành lệnh hạn chế nghiêm ngặt quyền tự do hành động của các thuyền trưởng tàu ngầm đối với tàu thương mại của các nước trung lập. Còn trong công hàm phản hồi vào ngày 16/2, Berlin đã viện dẫn quyền cơ bản được tiến hành chiến tranh thương mại bằng tàu ngầm để đáp trả lệnh phong tỏa của Anh đối với Đức. Và ngày 28/3/1915, tàu thủy Falaba của Anh đã bị đánh chìm, trên tàu có một công dân Mỹ.
Sau chiến tranh, Đô đốc Anh John Fisher viết thư cho Đại Đô đốc Đức Alfred von Tirpitz: "Ông là thủy thủ Đức duy nhất hiểu rõ về chiến tranh! Hãy giết kẻ thù trước khi chúng giết anh. Tôi không trách ông về câu chuyện những chiếc tàu ngầm. Nếu là tôi, tôi cũng đã làm điều tương tự và từ lâu đã cảnh báo về điều này, chỉ có điều những kẻ ngu ngốc ở Anh không tin". Tháng 3/1916, một tàu ngầm Pháp đã đánh chìm tàu bệnh viện Madalene Rickmers và sau đó tấn công bệnh viện nổi Electra.
Ngày 19/8/1915, tàu khách của Anh Arabic chở theo ba công dân Mỹ, đã bị ngư lôi Đức bắn chìm. Cuộc tấn công này vi phạm mệnh lệnh ngày 6/7 của Hoàng đế Đức cấm phóng ngư lôi vào các tàu chở khách. Tuy nhiên, lệnh này được giữ bí mật và Washington không biết điều đó.

Căn cứ hải quân Scapa Flow.
Thủ tướng Đức Bethmann-Hollweg đã ra chỉ thị cho các chỉ huy tàu ngầm không được đánh chìm tàu chở khách trong bất kỳ trường hợp nào mà không cảnh báo trước và không cho thủy thủ đoàn cũng như hành khách cơ hội thoát thân. Ngày 1/9, Đại sứ Đức tại Washington Bernstorff đã chính thức thông báo với chính phủ Mỹ rằng kể từ nay, các tàu ngầm Đức sẽ không đánh chìm tàu chở khách mà không có cảnh báo.
Ngày 7/11/1915, tại Địa Trung Hải, tàu chở khách Ancona của Ý đã bị trúng ngư lôi mà không được cảnh báo và tạo cơ hội cứu hộ thủy thủ đoàn và hành khách. Trong số 760 người trên tàu, hơn 200 người thiệt mạng, trong đó có 9 người Mỹ. Trên tàu còn có một khối lượng lớn vàng và bạc, ước tính theo thời giá hiện nay là 17 triệu euro.
Mặc dù tàu Ancona bị tàu ngầm Áo-Hung đánh chìm và nước này đồng ý bồi thường, Đức cũng phải chịu trách nhiệm về sự cố này. Ancona đã bị một tàu ngầm Đức treo cờ Áo-Hung bắn chìm. Thực ra, tàu ngầm Áo U-38 (trước đây là tàu ngầm Đức U-31) do thuyền trưởng Đức Max Valentiner chỉ huy.

Bộ trưởng Ngoại giao Đức Gottlieb von Jagow.
Năm 1915, các tàu ngầm Đức đã đánh chìm 228 tàu thương mại của phe Hiệp ước với tổng trọng tải 651.572 tấn và 89 tàu trung lập với tổng trọng tải 120.254 tấn. Tuy nhiên, Đức đã mất 19 tàu ngầm - tương đương 1/3 số tàu ngầm nước này vốn có.
Ngày 11/2/1916, Đức chính thức tuyên bố bắt đầu cái gọi là cuộc chiến tranh tàu ngầm "tăng cường" từ ngày 1/3/1916, theo đó, các tàu ngầm Đức được lệnh phóng ngư lôi mà không cần cảnh báo đối với tất cả các tàu quân sự và tàu buôn có vũ trang của phe Hiệp ước.
Ngày 24/3/1916, tàu thủy chở khách Sassex của Pháp đã bị tàu ngầm UV-29 của Đức tấn công mà không có cảnh báo ở eo biển Manche. Mặc dù con tàu không bị chìm, nhưng 80 người đã thiệt mạng và bị thương, trong đó có một số người Mỹ. Ngày 10/4, Berlin ra sức phủ nhận việc tàu ngầm Đức tấn công Sassex. Ngày 19/4, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson đã đọc một thông điệp phản hồi tại phiên họp chung của Quốc hội.
Trên thực tế, đây là một tối hậu thư. Nội dung thông điệp nói rằng việc sử dụng tàu ngầm "không phù hợp với các nguyên tắc nhân đạo" và "quyền của các quốc gia trung lập", đồng thời tuyên bố rằng nếu Đức tiếp tục thực hiện các hành vi tàn ác của mình, Hoa Kỳ sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài việc cắt đứt quan hệ ngoại giao.

Thủ tướng Đức Bethmann Hollweg.
Ngày 24/4, Tham mưu trưởng Hải quân, Đô đốc Henning von Holtzendorff, đã ra lệnh cho các thủy thủ ở Wilhelmshaven ngừng mọi hành động quân sự chống lại tàu buôn quanh quần đảo Anh và chỉ thực hiện các hoạt động theo các quy tắc chiến tranh tuần dương, nghĩa là khi phát hiện một tàu buôn nghi ngờ chở vũ khí cho đối phương, các thuyền trưởng tàu ngầm phải tự mình kiểm tra, cho phép thủy thủ đoàn rời tàu và chỉ sau đó mới có thể phóng ngư lôi vào tàu. Nhưng bộ chỉ huy hạm đội tàu ngầm đã từ chối thực hiện chiến tranh tuần dương, viện lý do nguy cơ cao đối với các tàu ngầm Đức.
Ngày 4/5, Đức cam kết không tấn công các tàu mà không tính đến sự mất mát của hành khách và thủy thủ đoàn, đồng thời sẽ tiến hành kiểm tra tàu trước khi tấn công bằng ngư lôi. Ngày 9/6, Đô đốc Holtzendorff thông báo cho Thủ tướng rằng, trong bối cảnh tình hình trên biển thay đổi sau trận hải chiến Jutland, ông dự định yêu cầu Hoàng đế từ ngày 1/7 tái khởi động chiến tranh ngầm theo hình thức hạn chế. Tuy nhiên, quyết định đã được hoãn lại cho đến khi cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ kết thúc.
Sau trận Jutland, quân Đức tập trung chủ yếu vào các tàu ngầm. Ngày 12/12, Tướng Đức Erich Ludendorff yêu cầu tái khởi động ngay lập tức chiến tranh tàu ngầm không hạn chế. Đồng thời, Bộ Hải quân đã xây dựng một kế hoạch hành động mới cho các tàu ngầm Đức, theo đó, nếu một cuộc chiến tranh tàn khốc nổ ra từ ngày 1/2, nước Anh sẽ bị đánh bại trong vòng 5 tuần.
Lần cuối cùng, vấn đề chiến tranh tàu ngầm được thảo luận giữa Thủ tướng và các thành viên của Bộ Tư lệnh Tối cao vào ngày 9/1/1917. Nước Đức quyết định tuyên bố cuộc chiến tranh tàu ngầm không hạn chế từ ngày 1/2/1917. Giờ đây, các tàu ngầm Đức sẽ tấn công tất cả các tàu hướng đến quần đảo Anh, kể cả các tàu trung lập. Sự kiện này, cũng như cuộc cách mạng ở Nga, đã thúc đẩy Mỹ tham gia chiến tranh bên phía phe Hiệp ước.

Tàu ngầm U9.
Tháng 1/1917, tổng thiệt hại của đội tàu buôn đồng minh do các tàu ngầm và thủy lôi Đức gây ra là 368.500 tấn, tháng 2 cùng năm - 540.000 tấn, tháng 3 - 593.800 tấn, và tháng 4 đạt đỉnh điểm là 881.000 tấn. Tuy nhiên, sau đó, tổn thất đã giảm xuống còn 278.700 tấn vào tháng 4/1918, thấp hơn mức tổn thất trung bình hàng tháng trước khi bắt đầu cuộc chiến tranh tàu ngầm không hạn chế.
Sự giảm thiểu tổn thất chủ yếu là do áp dụng hệ thống đoàn tàu hộ tống. Bên cạnh đó, hoạt động cải tiến vũ khí chống tàu ngầm cũng đóng vai trò quan trọng. Ví dụ: việc phát minh ra các loại bom sâu và lưới mìn mới, các thiết bị thủy âm và các thiết bị khác để phát hiện tàu ngầm dưới nước. Các tàu mồi nhử đặc biệt và các loại tàu chống ngầm mới đã được chế tạo, đồng thời hoạt động hàng không cũng trở nên tích cực hơn.
Tổng số tàu hộ tống bị mất trên biển Đại Tây Dương do tàu ngầm Đức gây ra trong giai đoạn từ ngày 26/7/1917 đến ngày 5/10/1918 chỉ chiếm 0,79% tổng số tàu được hộ tống, hoặc 0,85% tổng trọng tải. Những tổn thất này gần như không ảnh hưởng đến việc tiếp tế cho quần đảo Anh và vận chuyển vũ khí, quân đội.