Cuộc đời 'thanh bạch chẳng vàng son'
Sự cao thượng và vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ trên bình diện tư tưởng, sự nghiệp cách mạng, mà còn thể hiện sâu đậm bởi chính tấm gương đạo đức sáng ngời của Người. Cả cuộc đời, Người đã thể hiện trọn vẹn những tư tưởng và khát vọng đạo đức cách mạng để vừa là nhà lý luận đạo đức cách mạng, vừa là một tấm gương đạo đức sáng ngời, gần gũi và độc đáo nhất. Ở Người, đạo đức đã đạt tới một sự thống nhất chặt chẽ giữa nói với làm, giữa lý luận với thực tiễn, trong suy nghĩ với cách ứng xử, giữa đời công và đời tư.
Tấm gương đạo đức sáng ngời của Bác Hồ được thể hiện trước hết ở: Trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân, trọn đời phấn đấu, hy sinh cho sự nghiệp cách mạng; ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, vượt qua mọi thử thách, khó khăn. Ngay từ thuở thiếu thời, Người đã chọn cho mình con đường suốt đời phấn đấu cho cách mạng, tất cả vì giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trên con đường đó, Người đã chấp nhận mọi sự hy sinh, không quản gian nguy, kiên định, dũng cảm và sáng suốt, vạch ra đường hướng để giải phóng dân tộc Việt Nam, gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Cũng chính Người cùng với Đảng đề ra đường lối chiến lược, sách lược chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam trong điều kiện cực kỳ khó khăn, phức tạp khi mới giành được chính quyền sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945; xây dựng đường lối “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”, đường lối “tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng” và chỉ đạo nhân dân ta giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu
Người nhận rõ chân lý lớn nhất của lịch sử “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, coi đó là lý tưởng, là lẽ sống và cũng là học thuyết chính trị-đạo đức của mình. Từ đó, Người dấn thân vào thực tiễn đấu tranh cách mạng để mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân và dân tộc mình mà cũng vì nhân loại. Hoài bão, điều ham muốn tột bậc của Người là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, có đời sống ấm no, hạnh phúc. Chính ham muốn mãnh liệt ấy đã tạo cho Người một ý chí, một nghị lực phi thường để giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục và cho đến khi phải từ biệt thế giới này thì Người vẫn chỉ có một điều luyến tiếc là không được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa.
Trung với nước, hiếu với dân trong đạo đức Chủ tịch Hồ Chí Minh là tinh thần nhẫn nại, kiên trì, thắng không kiêu, khó khăn không nản, chẳng quản gian nguy vào ra chốn tù đày và cả khi lâm vào tình cảnh bị hiểu lầm, nghi kỵ “như sống ở bên lề, bên ngoài Đảng”. Trong khó khăn, hiểm nguy ấy, Người kiên trì chân lý, giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, luôn tự khuyên mình: Muốn nên sự nghiệp lớn, tinh thần càng phải cao.
Đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn sáng ngời lòng tuyệt đối tin tưởng vào sức mạnh của nhân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Người là lãnh tụ hết lòng thương yêu, quý trọng đối với nhân dân, luôn luôn tin tưởng vào trí tuệ, sức mạnh của nhân dân. Cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng và đạo đức của Người đã phản ánh một lẽ sống cao thượng-quên mình vì tất cả. Người đã hóa thân vào nhân dân nên thấu hiểu cuộc sống của dân, tâm nguyện của dân và suốt đời vì dân. Chính vì thế, mọi việc làm, mọi chính sách mà Người đề ra đều xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của nhân dân, luôn dựa vào dân.
Từ nhận thức sâu sắc: Nếu nước nhà được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần phục vụ nhân dân, phấn đấu chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người luôn dạy cán bộ phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân, phải gần dân, hiểu tâm lý nguyện vọng của nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, không được lên mặt “quan cách mạng”, cậy quyền, cậy thế, đè đầu cưỡi cổ dân.
Mặc dù ở cương vị rất cao, uy tín và sức hấp dẫn rất lớn, được toàn dân suy tôn là “Cha già dân tộc”, nhưng không khi nào Người tự cho mình đứng cao hơn nhân dân. Người cho rằng việc gánh vác chức Chủ tịch nước cũng như việc “người lính vâng mệnh lệnh quốc dân ra trận”. Mặc dù bận trăm công nghìn việc, nhưng mỗi khi nhận được thư, quà chúc mừng của nhân dân, Người đều tự tay viết thư trả lời, cảm ơn một cách thân tình, chu đáo, nêu tấm gương ứng xử văn hóa, đầy khiêm nhường và kính trọng đối với nhân dân. Cả cuộc đời Người “nâng niu tất cả chỉ quên mình” để lo cho tất cả. Đúng như nhà thơ Tố Hữu đã viết về Người: "Bác sống như trời đất của ta/ Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa/ Tự do cho mỗi đời nô lệ/ Sữa để em thơ, lụa tặng già".
Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời của một con người nhân ái, vị tha, khoan dung, nhân hậu, hết mực vì con người. Hồ Chí Minh-Người là “muôn vàn tình yêu” với đồng bào, đồng chí, bạn bè quốc tế. Tình thân yêu của Người dành cho tất cả mọi người, không quên, không bỏ sót một ai. Gắn bó máu thịt với nhân dân, Người hiểu rõ nỗi khổ của mỗi người, mỗi nhà và của toàn dân tộc. Người cảm nhận sâu sắc: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi”. Tình yêu thương bao la đó được mở rộng đối với nhân dân lao động toàn thế giới.
Đối với những người lầm lạc và cả những người chống đối hay kẻ thù, Người vẫn luôn thể hiện một lòng khoan dung, độ lượng hiếm có. Người căn dặn Đảng và Chính phủ trong Di chúc, khi thực hiện công tác hàn gắn vết thương sau chiến tranh là: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Trước hết là đối với cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong; cha mẹ, vợ con thương binh, liệt sĩ, với phụ nữ, nông dân... cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ. Người không bỏ sót một đối tượng nào.
Người là tấm gương đạo đức sáng ngời về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sáng, nếp sống giản dị và đức khiêm tốn phi thường. Cả cuộc đời của Người luôn coi khinh mọi sự xa hoa, không ưa chuộng nghi thức trang trọng. Người dặn dò chúng ta, khi Người qua đời, chớ nên điếu phúng linh đình, lãng phí thì giờ, tiền bạc của nhân dân. Ở Người luôn toát lên một cốt cách giản dị, cao thượng, vĩ đại. Đó là một cuộc đời “thanh bạch chẳng vàng son”. Đặc biệt, trong đạo đức của Người nổi bật sự khiêm tốn phi thường. Mặc dù Người có công lao rất lớn đối với nhân dân, với dân tộc và nhân loại, nhưng không khi nào để ai sùng bái cá nhân, mà luôn nêu cao vai trò của nhân dân. Người cho rằng: Quần chúng mới là người làm nên lịch sử và lịch sử là lịch sử của chính họ chứ không phải của một cá nhân anh hùng nào.
Nhân kỷ niệm 135 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng để tưởng nhớ Người sau gần 56 năm đi vào cõi vĩnh hằng, tiếp tục nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương sáng ngời về đạo đức của Người-tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta-là vinh dự, trách nhiệm của mọi người, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bối cảnh mới, khi đất nước bước vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên văn minh và phát triển.
Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/chinh-tri/cac-van-de/cuoc-doi-thanh-bach-chang-vang-son-828364