Cuối năm, ngân hàng vẫn nhộn nhịp tăng vốn
Hàng loạt các ngân hàng triển khai kế hoạch tăng vốn 'khủng' thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành riêng lẻ hoặc chào bán cho cổ đông hiện hữu trong 2025.
Ngân hàng dồn dập tăng vốn điều lệ
Từ đầu năm đến nay, trong cuộc đua tăng vốn, hàng loạt nhà băng, từ khối quốc doanh đến tư nhân đồng loạt công bố kế hoạch bổ sung vốn với tổng quy mô lên tới hàng trăm nghìn tỷ đồng.
Các phương thức triển khai đa dạng, nhưng phổ biến nhất là sử dụng lợi nhuận giữ lại để chia cổ tức bằng cổ phiếu. Bên cạnh đó, các kế hoạch phát hành cổ phiếu cho người lao động (ESOP) và chào bán riêng lẻ cho nhà đầu tư chiến lược, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài cũng đang được thúc đẩy mạnh mẽ.

Ảnh: PV tổng hợp (Tính đến ngày 30/11/2025)
Những tháng cuối năm, làn sóng tăng vốn điều lệ trong ngành vẫn diễn ra sôi động, từ nhóm ngân hàng quốc doanh đến các nhà băng tư nhân quy mô nhỏ.
Mới đây nhất, ngân hàng SHB vừa công bố Nghị quyết HĐQT về phương án tăng vốn thêm 7.500 tỷ đồng, đưa vốn điều lệ lên 53.442 tỷ đồng thông qua phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu, ESOP và chào bán riêng lẻ cho nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Theo SHB, việc tăng vốn điều lệ giúp ngân hàng nâng cao nền tảng tài chính và năng lực cạnh tranh, tạo điều kiện mở rộng quy mô, phát triển hoạt động kinh doanh trong chiến lược chuyển đổi toàn diện.
VietinBank cũng sắp chốt danh sách cổ đông vào ngày 18/12 để phát hành 2,4 tỷ cổ phiếu trả cổ tức từ nguồn lợi nhuận còn lại các năm 2021, 2022 và giai đoạn 2009 - 2016, tương ứng tỷ lệ khoảng 44,64%. Sau đợt phát hành, vốn điều lệ của VietinBank dự kiến tăng mạnh từ gần 53.700 tỷ đồng lên 77.670 tỷ đồng.
Trong ngày 18/12, Saigonbank cũng sẽ chốt danh sách cổ đông để thực hiện phát hành hơn 22 triệu cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với tỷ lệ 6,5%, tương ứng mỗi 1.000 cổ phiếu đang nắm giữ sẽ nhận thêm 65 cổ phiếu mới. Sau đợt phát hành này, vốn điều lệ Saigonbank dự kiến tăng từ 3.388 tỷ đồng lên 3.608 tỷ đồng.
HDBank thông báo chốt quyền vào ngày 19/12 để thực hiện chi trả cổ tức và thưởng cổ phiếu với tổng tỷ lệ gần 30%.
Theo đó, cổ đông sở hữu 100 cổ phiếu HDB sẽ nhận thêm 29,69 cổ phiếu, bao gồm 25% cổ tức từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối năm 2024 và 4,69% cổ phiếu thưởng từ quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Sau các đợt phát hành, vốn điều lệ của HDBank dự kiến tăng từ 38.594 tỷ đồng lên 50.053 tỷ đồng.
Cũng trong quý IV/2025, TPBank đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tăng vốn từ 26.420 tỷ đồng lên hơn 27.740 tỷ đồng thông qua phát hành 132 triệu cổ phiếu để trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu.
Hay VietABank cũng đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận tăng vốn điều lệ thêm gần 3.332 tỷ đồng (tương đương 40,8%) trong năm 2025, lên gần 11.495 tỷ đồng, thông qua phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu và ESOP. Trước đó, ngân hàng này cũng đã tăng thêm 2.764 tỷ đồng vốn điều lệ vào tháng 8.
Nhiều ngân hàng khác cũng đã thực hiện hoặc đang chuẩn bị cho kế hoạch tăng vốn mạnh mẽ nhằm củng cố nguồn vốn trung và dài hạn, đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực an toàn vốn ngày càng khắt khe theo thông lệ quốc tế.
Áp lực nâng chuẩn an toàn vốn
Nhiều ngân hàng đẩy mạnh tăng vốn điều lệ nhằm từng bước đáp ứng các chuẩn mực Basel III, vốn đặt ra yêu cầu cao hơn không chỉ về quy mô mà còn về chất lượng vốn.
Tăng vốn điều lệ được xem là giải pháp trực tiếp và hiệu quả nhất giúp các ngân hàng cải thiện hệ số an toàn vốn (CAR).
Nhất là trong bối cảnh hồi tháng 9 qua, Thông tư 14/2025 do Ngân hàng Nhà nước ban hành quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thay thế Thông tư 41/2016 đã bắt đầu có hiệu lực, trong đó yêu cầu các ngân hàng thương mại phải duy trì tỷ lệ vốn lõi cấp 1 ≥ 4,5%; tỷ lệ vốn cấp 1 ≥ 6% và tỷ lệ an toàn vốn CAR ≥ 8%. Thông tư 14/2025 cũng đề ra lộ trình nâng CAR theo từng năm để đến 2030 áp dụng mức CAR tối thiểu ≥ 10,5%.
Công thức tính CAR cơ bản: CAR = Vốn tự có/ Tổng tài sản có rủi ro quy đổi
CAR càng cao đồng nghĩa với việc ngân hàng sở hữu “bộ đệm” vốn dày hơn, đủ khả năng hấp thụ các cú sốc và khoản lỗ bất ngờ phát sinh từ rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường hay rủi ro hoạt động. Trong bối cảnh nợ xấu tiềm ẩn nguy cơ gia tăng sau giai đoạn kinh tế khó khăn, khi các chính sách cơ cấu lại nợ dần hết hiệu lực, bộ đệm vốn này không chỉ là lá chắn cho từng ngân hàng mà còn góp phần đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống.
Bên cạnh yếu tố an toàn vốn, áp lực tăng vốn điều lệ còn xuất phát từ sự mất cân đối về kỳ hạn giữa huy động và cho vay. Nguồn vốn chủ yếu của các ngân hàng hiện nay vẫn là tiền gửi ngắn hạn từ dân cư, trong khi nhu cầu tín dụng của nền kinh tế lại tập trung vào các khoản vay trung và dài hạn phục vụ đầu tư, sản xuất – kinh doanh và bất động sản.
Để kiểm soát rủi ro thanh khoản, NHNN đã ban hành Thông tư 22/2019/TT-NHNN (sửa đổi bởi Thông tư 08/2020/TT-NHNN), siết chặt tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn, hiện ở mức 30%. Theo quy định này, để cho vay 100 đồng vốn trung – dài hạn, ngân hàng phải có tối thiểu 70 đồng nguồn vốn trung – dài hạn đối ứng. Khi hạn mức tăng trưởng tín dụng (room tín dụng) bị thu hẹp, vốn điều lệ trở thành nguồn vốn dài hạn ổn định và mang tính quyết định.
Việc tăng vốn điều lệ vì thế không chỉ giúp ngân hàng đáp ứng chuẩn mực an toàn vốn, mà còn bổ sung nguồn vốn dài hạn “thật”, tạo dư địa cho tín dụng trung và dài hạn, qua đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế mà vẫn tuân thủ chặt chẽ các quy định an toàn của cơ quan quản lý.
Nguồn Doanh Nhân VN: https://doanhnhanvn.vn/cuoi-nam-ngan-hang-van-nhon-nhip-tang-von.html














