Đá ong – từ chất liệu dân gian đến biểu tượng kiến trúc bền vững
Đá ong – vật liệu đặc trưng của vùng nhiệt đới Việt Nam – mang vẻ đẹp mộc mạc và bền vững vượt thời gian. Từ Sơn Tây đến Tây Nguyên, đá ong được khai thác, ứng dụng rộng rãi trong xây dựng, trang trí nội thất, tạo dấu ấn hài hòa giữa truyền thống và hiện đại.
Đá ong là gì, đất hay đá?
Đá ong (còn gọi là laterite) là một dạng đá phong hóa hình thành từ đất đỏ bazan hoặc đất feralit giàu sắt và nhôm. Dưới tác động của thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều, các khoáng chất hòa tan bị rửa trôi, còn lại hợp chất sắt, nhôm và silic kết tinh lại thành khối rắn, có màu nâu đỏ, nâu sẫm hoặc vàng cam đặc trưng.
Vì vậy, đá ong vừa là đất, vừa là đá – bắt đầu là đất feralit, nhưng qua hàng trăm năm phong hóa trở nên rắn chắc, có thể cắt thành khối xây dựng. Khi mới khai thác, đá ong khá mềm, dễ cắt, nhưng sau khi gặp nắng và không khí, bề mặt nhanh chóng cứng lại, bền vững như đá tự nhiên.
Phân bố đá ong ở Việt Nam
Đá ong xuất hiện phổ biến ở vùng trung du, miền núi thấp và các khu vực đất đỏ bazan. Một số địa phương có trữ lượng và truyền thống khai thác đá ong nổi tiếng gồm: Hà Nội (Sơn Tây, Đan Phượng, Thạch Thất, Quốc Oai): nổi tiếng với “đá ong xứ Đoài”, dùng nhiều trong tường thành cổ và nhà dân vùng Ba Vì. Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng Yên, Phú Thọ: xuất hiện ở các gò đồi thấp, xen kẽ đồng bằng. Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: đá ong dạng khối lớn, rắn chắc, màu sẫm hơn. Đắk Lắk, Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng: đá ong đỏ bazan có màu tươi, được khai thác cho vật liệu ốp lát hiện đại. Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh: đá ong vàng cam, rỗ tổ ong, thích hợp cho trang trí nội thất.
Cách khai thác đá ong ở từng vùng
Tùy vào địa chất, người dân có các phương pháp khai thác khác nhau:
Miền Bắc (Sơn Tây, Ba Vì): Đá ong nằm cách mặt đất 1–2 mét. Khi mưa xuống, đất mềm, người ta dùng cuốc, xẻng cắt thành khối 40x20x20 cm. Sau khi phơi nắng, đá cứng lại.
Đặc điểm: dễ cắt, dễ phơi, phù hợp cho nhà dân dụng.

Đá ong có cấu tạo mềm, xốp, lỗ chỗ như tổ ong nằm dưới đất và được coi là một nguồn nhiên liệu độc đáo của người dân xã Bình Yên. (Nguồn: Báo Ảnh VN)
Miền Trung (Nghệ An, Thanh Hóa): Đá ong nằm sâu hơn, cấu trúc rắn chắc. Khai thác cần dùng cưa hoặc máy cắt, chi phí cao hơn.
Đặc điểm: đá cứng, màu sẫm, chịu thời tiết tốt.

Người lao động ở thôn Mỹ Sơn (Núi Thành- Quảng Nam) cặm cụi khai thác đá ong. Ảnh: Q.VIỆT
Tây Nguyên: Đá ong đỏ bazan được khai thác bằng máy, sau đó xẻ tấm, mài phẳng dùng cho trang trí hiện đại.
Đặc điểm: sắc đỏ đẹp, phù hợp kiến trúc hiện đại.
Ưu điểm và hạn chế của đá ong
Ưu điểm:
Bền vững với thời gian, càng để lâu càng cứng.
Khả năng cách nhiệt, chống ẩm tốt nhờ cấu trúc tổ ong.
Màu sắc tự nhiên, ấm áp, tạo cảm giác gần gũi, cổ kính.
Thân thiện môi trường, không cần nung, dễ tái sử dụng.
Hạn chế:
Dễ rạn nứt nếu khai thác sai thời điểm hoặc phơi quá nhanh.
Hấp thụ nước mạnh nếu không xử lý bề mặt, dễ mọc rêu.
Khai thác thủ công tốn sức, khó đảm bảo đồng nhất màu sắc.
Tuổi thọ của đá ong trong các công trình
Thực tế cho thấy, các công trình bằng đá ong có thể tồn tại hàng trăm năm nếu được bảo dưỡng hợp lý.
Ví dụ:
Thành cổ Sơn Tây (xây năm 1822) đến nay vẫn vững chãi, dù trải qua mưa nắng gần 200 năm.
Tường rào nhà cổ ở Đường Lâm, Ba Vì vẫn giữ nguyên kết cấu, chỉ bị rêu phong nhẹ.
Trong xây dựng hiện đại, đá ong xử lý chống thấm có tuổi thọ 50–100 năm, tương đương hoặc hơn gạch nung.
Hiện nay, đá ong được ứng dụng đa dạng: xây tường, tường rào, hàng rào biệt thự mang phong cách mộc mạc, cổ điển. Ốp mặt tiền, giếng trời, lối đi sân vườn, kết hợp cây xanh và ánh sáng tự nhiên. Trang trí nội thất: ốp tường phòng khách, quầy bar, vách tiểu cảnh, tạo cảm giác ấm áp, tự nhiên. Phối hợp với vật liệu hiện đại: như kính, gỗ, thép để tạo điểm nhấn tương phản trong thiết kế kiến trúc.

Ngôi nhà đá ong của ông Nguyễn Ngọc Thanh, ở xã Vạn Tường , Quảng Ngãi (Nguồn: Báo Quảng Ngãi)
Đá ong thường được dùng trong kiến trúc nhà vườn, resort, homestay, biệt thự cổ điển, nhà thờ họ. Các công trình mang yếu tố di sản hoặc văn hóa truyền thống như nhà trưng bày, đình chùa, bảo tàng địa phương. Không gian hiện đại kết hợp cổ điển: khi cần tạo cảm giác mộc, trầm và gần gũi.
Dấu ấn đá ong trong kiến trúc cổ Việt Nam
Đá ong đã góp phần làm nên nhiều công trình cổ tiêu biểu như thành cổ Sơn Tây – tòa thành duy nhất ở Việt Nam xây hoàn toàn bằng đá ong. Làng cổ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội) – những ngôi nhà hàng trăm năm tuổi với tường, giếng, cổng bằng đá ong. Các nhà thờ họ ở Bắc Ninh, Hưng Yên – dùng đá ong xen gạch, tạo vẻ đẹp trầm mặc. Đình làng Cẩm Giàng, nhà cổ Ba Vì – nơi đá ong trở thành “chứng nhân” của lịch sử vùng Đoài.

Cổng thành cổ Sơn Tây xây bằng đá ong được rễ cây cổ thụ bao quanh, trùm kín. Ảnh: Vũ Đức Hùng
Đá ong không chỉ là vật liệu xây dựng bình dị của người nông thôn xưa, mà còn là di sản kiến trúc dân gian mang giá trị thẩm mỹ và bền vững cao. Ngày nay, khi kiến trúc hiện đại hướng tới “sống xanh” và “hòa hợp thiên nhiên”, đá ong đang hồi sinh, bước vào những công trình mới — vừa hiện đại, vừa mang hơi thở truyền thống Việt.











