Đặc sắc lễ hội Bà Thu Bồn - di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
Lễ hội Bà Thu Bồn mang đậm dấu ấn đời sống tín ngưỡng dân gian thể hiện khát vọng phồn thực, cầu mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an cho cộng đồng làng xã.
Hằng năm, từ mùng 10 đến 12 tháng 2 âm lịch, dân làng ở phía thượng nguồn sông mẹ Thu Bồn ở huyện Nông Sơn và hạ nguồn tại huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam lại cùng lúc tổ chức lễ hội Bà Thu Bồn.
Lễ hội là một trong những giá trị văn hóa, tâm linh mang đậm dấu ấn đời sống tín ngưỡng dân gian của quê hương, xứ sở gắn với sông mẹ Thu Bồn, thể hiện khát vọng phồn thực, cầu mùa màng bội thu, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an cho cộng đồng làng xã.
Lễ hội Bà Thu Bồn được hình thành từ khi người Việt ở vùng Thanh Nghệ, Đại Việt qua nhiều đợt di cư đến khai phá vùng đất mới, lập làng, lập xã hiệu vào thế kỷ XIV và được bảo tồn, phát triển cho đến ngày nay.
Tại vùng đất Quảng Nam, dọc lưu vực sông Thu Bồn, cộng đồng người Việt đã tụ cư và giao thoa tiếp biến với văn hóa Chămpa để tạo nên tín ngưỡng thờ mẫu Bà Thu Bồn, cho đến hiện nay, nghi thức lễ rước nước tại Lễ hội Bà Thu Bồn hằng năm cũng là yếu tố văn hóa biến thể từ nguồn gốc tín ngưỡng của người Chăm xưa.
Các làng ven sông Thu như làng Thu Bồn, Phường Rạnh, Đại Bường, Trung Phước (thuộc hai huyện Duy Xuyên và Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam)… đều cử lễ Bà, nhưng quy mô và tiêu biểu nhất là Lễ hội Bà Thu Bồn diễn ra tại làng Thu Bồn thuộc xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên, nơi tọa lạc Dinh Bà lớn nhất và cũng là nơi khởi nguồn truyền thuyết.
Nhiều truyền thuyết
Truyền thuyết về Bà Thu Bồn được kể theo nhiều cách khác nhau trong dân gian với rất nhiều dị bản. Khi thì Bà là một nàng công chúa xinh đẹp của Vua Mây, có khi lại là một nữ tướng người Chăm uy nghi khí phách, khi thì Bà lại là một nữ tướng người Việt dưới triều Lê…
Trong những truyền thuyết này, dù là công chúa hay nữ tướng, là người Việt hay Chăm thì đều có một điểm chung là Bà đều hy sinh trong chiến trận, xác trôi dạt trên dòng Thu Bồn và được người dân nơi đây đưa về chôn cất. Từ đó bà hiển linh ứng cứu giúp đỡ nhân dân trong muôn cơn bĩ cực, thiên tai, bệnh dịch, đói nghèo… và được người dân suy tôn, lập đền thờ chiêm bái.
Một truyền thuyết khác mang nhiều màu sắc thần thoại vẫn được lưu truyền ở địa phương kể: làng Thu Bồn ngày xưa có gia đình phú hộ sinh được người con gái đẹp, vừa sinh ra đã có mái tóc dài xõa lưng, lúc chào đời không khóc mà nở nụ cười. Khi lên năm tuổi, cô gái đã biết y thuật để trị bệnh cho dân.
Càng lớn cô càng xinh đẹp nhưng không chịu lấy chồng mà chỉ tập trung cứu người. Cô chữa bệnh bằng phương pháp ngoại khoa và thảo dược rất hiệu nghiệm, chữa khỏi cho nhiều người bị bệnh nan y ở các nơi trong vùng và chẳng hề lấy công. Năm 50 tuổi, bà được tôn là Đức Bà Hằng Cứu Thế.
Có nhiều truyền thuyết về bà Thu Bồn, song tất cả đều hội tụ và toát lên chân dung vẻ đẹp của người phụ nữ đa tài, đức độ, là người mẹ của quê hương, xứ sở mang sắc màu thần bí, là biểu tượng của khát vọng đất nước thái bình.
Lễ tẩm liệm bà được tổ chức theo lời dặn lại là chỉ dùng hoa lá và sau đó được quàn ở đình làng Thu Bồn bảy ngày bảy đêm do các chức sắc trong làng túc trực hương khói. Bỗng nhiên vào một đêm, người ta nghe hương thơm của hoa sứ bay tỏa khắp làng, nắp áo quan bị mở tung và bên trong chứa đầy một loại hoa sứ trắng. Còn thân xác bà và những loại lá cỏ tẩm liệm không ai biết đã biến đi đâu.
Từ đó về sau, những năm hạn hán, lụt lội người dân trong vùng đói khổ, bà đều linh ứng hiện về cứu giúp khôi phục mùa màng… Để đền đáp công ơn độ thế của bà, dân trong vùng quyết định xây một dinh thờ lớn thờ chiếc áo quan và hành lễ hàng năm, trong sân dinh trồng nhiều cây hoa sứ và một cây đa… Trên trụ cổng Dinh Bà còn câu đối “Hiển hách thiêng liêng tại/Anh linh vạn cổ tồn.”
Dưới triều vua Minh Mạng, Bà được sắc phong là “Mỹ Đức Thục Hạnh Bô Bô Phu nhân Thượng đẳng thần” mà nay bài vị thờ trong Dinh Bà còn ghi.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Hồng, dù là Bô Bô Phu nhân theo tên Chăm hay Bà Thu Bồn theo cách gọi Việt, thì đó vẫn là “sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố Chăm-Việt trong tín ngưỡng, thể hiện ở chỗ Bà được xem là vị thần bảo hộ cho cả cư dân sống trên cạn và cư dân sống bằng nghề sông nước…
Bởi thế, trong phần lễ của Lễ hội Bà Thu Bồn bao giờ cũng phải đầy đủ các nghi thức: lễ rước Sắc, lễ rước nước, lễ đại tế tại Dinh Bà. Trong đó, lễ rước Sắc được tiến hành trên cạn vào chiều ngày hôm trước (11/2 âm lịch) với 9 đội hình trông rất oai nghiêm gồm lân; cờ đại; cờ ngũ sắc; nhạc cổ; trống chiêng; kiệu rước Sắc; lính hộ tống; đội hình phụ nữ và bô lão.
Lễ rước nước là phần sôi động nhất, rực rỡ nhất của Lễ hội Bà Thu Bồn, được tiến hành từ sáng sớm ngày chính lễ (12/2 âm lịch) trên không gian rộng lớn từ thượng nguồn sông Thu Bồn về tới Dinh Bà bằng cả thuyền và đám rước bộ với hàng trăm người tham gia.
Sau khi nước được rước từ thượng nguồn về Dinh để tắm rửa Thần vị và dùng làm nước cúng thì cử hành Lễ đại tế tại Dinh Bà. Đây là phần lễ rất long trọng với vật tế là một con trâu đực còn nguyên đã được làm sạch lông, da phết huyết đỏ thắm được cúng cùng một mâm xôi trắng lớn; ngoài ra còn các loại bánh trái đặc trưng phong vị xứ Quảng do dân làng dâng lên Bà và đủ loại bánh trái khác từ khách thập phương…
Nếu như phần lễ mang lại một không khí rực rỡ và cổ xưa với những đoàn rước cùng tán lọng, cờ xí, kiệu vai đủ màu sắc và trang phục các dân tộc Việt, Chăm, Katu… diễu hành qua những cảnh sắc làng ven sông tuyệt đẹp của xứ Quảng từ những mái ngói và hàng cau sương đọng, lũy tre mơ màng ven sông và triền sông Thu trải dài trong nắng sớm… thì phần hội cũng có sức hút sôi động riêng của nó với những hoạt động văn hóa-thể thao hấp dẫn
Đó là các hoạt động văn hóa, thể thao như hát tuồng, hô hát bài chòi, hát hò khoan đối đáp, hội hoa đăng trên sông Thu Bồn; thi kéo co, thi đấu bóng đá, bóng chuyền, quan trọng nhất là hội đua thuyền Lệ Bà (Nam-Nữ), hội thả hoa đăng và đốt lửa thiêng trên những bãi bồi của dòng Thu Bồn.
Đến với Lễ hội Bà Thu Bồn, du khách có thể thưởng thức các món ăn đặc sắc làm từ cá mòi - một loại cá đặc sản ở làng Thu Bồn như các món mì Quảng nhân cá mòi, gỏi cá mòi, ram cá mòi, chả cá mòi chiên… luôn làm vấn vương bước chân du khách. Khu ẩm thực với các món ăn phong phú như cháo lươn, mì Quảng, bánh tráng đập, trái cây…
Nâng tầm lễ hội
Từ năm 2005 đến nay, lễ hội Bà Thu Bồn được tỉnh Quảng Nam đưa vào chương trình lễ hội “Quảng Nam - hành trình di sản.”
Mới đây nhất, ngày 14/3, tỉnh Quảng Nam đã tổ chức Lễ đón nhận Bằng chứng nhận di sản văn hóa phi vật thể quốc gia Lễ hội Bà Thu Bồn.
Theo Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Trần Văn Tân, lễ hội Bà Thu Bồn lần này là một sự kiện quan trọng trong chuỗi các hoạt động của Năm du lịch quốc gia với chủ đề “Quảng Nam - điểm đến du lịch xanh.”
Nhấn mạnh một trong những nội hàm quan trọng, nhân tố trụ cột của “du lịch xanh” là bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc trưng, Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Trần Văn Tân đề nghị chính quyền huyện Nông Sơn và Duy Xuyên tăng cường quảng bá, giới thiệu đến đông đảo nhân dân, du khách gần xa nhằm phát triển du lịch mạnh hơn nữa, nhất là du lịch văn hóa tín ngưỡng.
Những giá trị đặc sắc của Lễ hội Bà Thu Bồn đã được công nhận và đang tiếp tục phát huy. Tuy nhiên, trước thực trạng một lễ hội nhưng có 2 địa phương cùng tổ chức, đã ít nhiều bộc lộ sự thiếu thống nhất, khi vẫn “mạnh ai nấy làm.”
Bà Nguyễn Thị Thu Thủy - Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Nông Sơn cho biết sắp tới huyện sẽ kiến nghị tỉnh tổ chức hội nghị hoặc tọa đàm xung quanh vấn đề tổ chức Lễ hội Bà Thu Bồn, để từ đó thống nhất một kịch bản tổ chức lễ hội chung giữa 2 địa phương nhằm nâng tầm, phát huy giá trị lễ hội qua các nghi lễ được phục dựng một cách bài bản…
Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Trần Văn Tân đề nghị huyện Nông Sơn và Duy Xuyên có sự phối hợp chặt chẽ trong việc tổ chức lễ hội, kể cả phối hợp với các huyện phía tây của tỉnh để hình thành một chuỗi các lễ hội tri ân, tưởng nhớ về Mẹ Thu Bồn, từ đó liên kết lại, tạo nên sản phẩm du lịch văn hóa, lịch sử truyền thống sông nước đặc sắc, độc đáo với quy mô lớn hơn nhằm thu hút du khách./.