Đại biểu Bế Minh Đức thảo luận Chương trình Mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035
Tiếp tục ngày làm việc thứ 33, Kỳ họp thứ Mười, Quốc hội Khóa XV, chiều 2/12, Quốc hội thảo luận về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu quốc gia (CTMTQG) hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035.
Tại phiên thảo luận của Quốc hội về Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư CTMTQG hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026 - 2035, nhiều ý kiến đại biểu nhấn mạnh tính cấp thiết của việc đầu tư tập trung, đồng bộ và có trọng tâm vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) - khu vực còn nhiều rào cản trong tiếp cận giáo dục chất lượng. Đại biểu đề xuất loạt giải pháp mang tính đột phá, đặc biệt về đội ngũ giáo viên, cơ chế phân bổ vốn và mục tiêu cụ thể của chương trình.

Phó Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bế Minh Đức phát biểu thảo luận tại hội trường.
Chương trình có ý nghĩa chiến lược nhưng cần lượng hóa rõ mục tiêu
Phát biểu tại phiên thảo luận chung tại hội trường, đại biểu Bế Minh Đức, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh bày tỏ sự đồng thuận cao đối với việc ban hành CTMTQG về giáo dục giai đoạn 2026 - 2035. Theo đại biểu, đây là “quyết sách đặt nền móng cho phát triển bền vững lâu dài của đất nước”, đặc biệt khi giáo dục được xác định là động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng chất lượng trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần lượng hóa rõ ràng hơn các mục tiêu trong dự thảo.
Tại điểm b khoản 1 Điều 1, Dự thảo quy định mục tiêu đến năm 2035 “các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông có đủ thiết bị dạy học để triển khai tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai”. Đại biểu cho rằng cách diễn đạt này còn chung chung, chưa phản ánh rõ mức độ cam kết.
Đại biểu đề xuất điều chỉnh mục tiêu theo hướng khẳng định 100% cơ sở giáo dục đạt chuẩn về cơ sở vật chất, 100% có đủ thiết bị dạy học để triển khai tiếng Anh, bảo đảm tính đồng bộ, không tạo khoảng trống chính sách giữa các địa phương. Việc định lượng hóa mục tiêu sẽ giúp quá trình triển khai được giám sát minh bạch, tránh đầu tư dàn trải và bảo đảm tính thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Thiếu giáo viên vùng DTTS - “Nút thắt” cần một chính sách đột phá
Một trong những vấn đề lớn được đại biểu Bế Minh Đức nhấn mạnh là tình trạng thiếu giáo viên khá phổ biến tại nhiều tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Đây là yếu tố then chốt quyết định thành công của chương trình, bởi “đầu tư nghìn tỷ xây trường lớp mà không có giáo viên thì mọi nguồn lực xây dựng cơ bản đều khó phát huy hiệu quả”.Đại biểu dẫn chứng: Tại Cao Bằng, theo báo cáo ngành giáo dục, năm học 2025 - 2026 địa phương cần 14.031 viên chức, nhưng số biên chế được giao chỉ 11.825, thiếu tới 2.206 giáo viên. Con số này phản ánh thực trạng chung của nhiều địa phương vùng khó khăn.Hiện dự thảo chỉ nêu “từng bước bảo đảm đội ngũ giáo viên”, nhưng chưa xác định mục tiêu cụ thể.
Đại biểu đề nghị: Bổ sung chỉ tiêu cụ thể về đội ngũ giáo viên cho từng cấp học, gắn với tiến độ triển khai chương trình. Xây dựng cơ chế đặc thù thu hút - giữ chân giáo viên ở vùng DTTS, bao gồm phụ cấp thu hút, nhà công vụ, hỗ trợ đời sống và lộ trình thăng hạng nghề nghiệp. Ưu tiên nguồn vốn cho đào tạo và bồi dưỡng, vì giáo viên là yếu tố cốt lõi quyết định chất lượng giáo dục trong kỷ nguyên chuyển đổi số. Theo đại biểu, đầu tư cho giáo viên không chỉ mang lại lợi ích về chất lượng giáo dục mà còn tạo hiệu ứng công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng miền.
Phân bổ vốn phải bảo đảm “Tập trung - hiệu quả - đúng đối tượng”
Về nguyên tắc phân bổ vốn, đại biểu đề nghị làm rõ hơn để phù hợp tinh thần Luật Đầu tư công 2024 và các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch đầu tư công trung hạn. Theo đó, nguồn lực phải được ưu tiên cho các CTMTQG, tránh phân tán, dàn trải. Đại biểu kiến nghị: Cần xây dựng một tiểu dự án độc lập dành riêng cho giáo dục vùng đồng bào DTTS, thay vì tiếp tục lồng ghép rải rác trong các dự án thành phần như Dự án 1 hay Dự án 4 - vốn dễ dẫn tới phân tán nguồn lực và khó bảo đảm đầu tư tập trung. Tiểu dự án chuyên biệt này cần có mã số vốn riêng, được thiết kế để giải quyết toàn diện các nhu cầu cấp thiết của giáo dục vùng DTTS, bao gồm: nâng cấp cơ sở vật chất, bổ sung trang thiết bị dạy học, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên, và phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý. Việc tách thành tiểu dự án độc lập sẽ giúp kiểm soát dòng vốn chặt chẽ hơn, đánh giá hiệu quả đầu tư minh bạch và hướng nguồn lực đúng vào những khu vực thực sự cần ưu tiên….
Bên cạnh nguồn vốn tập trung cho xây dựng trường lớp, chương trình cần ưu tiên mạnh mẽ hơn cho đầu tư vào con người, bởi đây mới là yếu tố quyết định chất lượng giáo dục trong dài hạn. Theo đó, cần tăng chi cho các chính sách tác động trực tiếp đến học sinh và giáo viên, như bảo đảm chế độ dinh dưỡng và học phẩm cho học sinh nghèo, tăng cường chính sách hỗ trợ giáo viên cắm bản, đồng thời đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực đội ngũ. Đại biểu nhấn mạnh, đầu tư cho con người chính là giải pháp mang lại hiệu quả bền vững nhất, vượt lên trên giá trị của đầu tư hạ tầng đơn thuần.
Kết thúc phần phát biểu, đại biểu Bế Minh Đức nhấn mạnh rằng đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho tương lai, nhưng đầu tư cho giáo dục vùng đồng bào DTTS còn là đầu tư cho công bằng, bình đẳng và bảo đảm quyền học tập suốt đời của mọi công dân. Đại biểu cho rằng, nếu Nghị quyết được ban hành với tinh thần ưu tiên mạnh mẽ, cùng với cơ chế phân bổ vốn hợp lý và các chính sách đặc thù rõ ràng dành cho vùng DTTS, CTMTTQG giai đoạn 2026 - 2035 sẽ có đủ điều kiện để thu hẹp khoảng cách giữa vùng thuận lợi và vùng khó khăn, kiến tạo một nền giáo dục hiện đại, nhân văn, bao trùm, đồng thời, tạo ra bước phát triển bền vững cho thế hệ trẻ ở mọi miền đất nước. Với cách tiếp cận mới, đại biểu tin tưởng chương trình sẽ tạo nên “cú hích lịch sử”, tháo gỡ những nút thắt tồn tại lâu nay trong phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS.











