Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp đề xuất nhiều giải pháp thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội (QH) khóa XV, trong phiên làm việc toàn thể sáng 28-10, QH nghe Báo cáo về kết quả giám sát chuyên đề 'Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành' và tập trung thảo luận về nội dung này.
CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ĐẠT NHIỀU KẾT QUẢ QUAN TRỌNG
Theo báo cáo của Đoàn giám sát QH, sau khi Luật có hiệu lực, công tác BVMT đạt được nhiều kết quả tích cực. Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương ban hành hơn 500 văn bản hướng dẫn và triển khai thi hành Luật BVMT; trong đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành ban hành hơn 30 văn bản, qua đó cơ bản thể chế và cụ thể hóa đầy đủ các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu, quán triệt nguyên tắc môi trường là một trong ba trụ cột “Kinh tế - Xã hội - Môi trường” để phát triển bền vững, chuyển mạnh sang cơ chế quản lý môi trường bằng công cụ kinh tế với sự tham gia của toàn xã hội.

Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”.
Nhiều mục tiêu quan trọng đã đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó có 3/5 chỉ tiêu đã vượt kế hoạch năm 2025, gồm tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt đô thị, tỷ lệ khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung và tỷ lệ che phủ rừng. Tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã được ngăn chặn.
Các nguồn thải lớn đã được kiểm soát chủ động và chặt chẽ, không để xảy ra sự cố môi trường lớn; đã xuất hiện nhiều mô hình đô thị, nông thôn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, cơ sở sản xuất sinh thái, thân thiện với môi trường. Nhiều dự án lớn được kiểm soát chặt chẽ về BVMT đi vào vận hành chính thức, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2022 - 2024, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thanh tra 812 cơ sở, xử phạt 348 cơ sở với tổng số tiền 96,7 tỷ đồng. Các địa phương đã xử phạt 14.863 vụ với tổng số tiền 643 tỷ đồng. Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện 12 cuộc kiểm toán, chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập trong quản lý môi trường. Bên cạnh đó, lực lượng Cảnh sát môi trường đã tích cực điều tra, phát hiện, khởi tố 2.336 vụ/2.935 bị can.
Tốc độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái môi trường đã được ngăn chặn, chất lượng môi trường từng bước cải thiện, đặc biệt là chất lượng môi trường đất, môi trường nước mặt một số lưu vực sông chính, nước biển ven bờ, nước dưới đất.

Toàn cảnh phiên họp tại hội trường.
Công tác ứng phó với biến đổi khí hậu có chuyển biến tích cực; khả năng chống chịu và năng lực thích ứng của hệ thống tự nhiên, kinh tế và xã hội được nâng cao, bảo đảm sinh kế bền vững; kiểm kê khí nhà kính tại các doanh nghiệp đã được triển khai thực hiện. Về ứng phó biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu Long, nhiều giải pháp công trình và phi công trình đang được triển khai...
Tuy nhiên, Đoàn giám sát cũng thẳng thắn chỉ ra nhiều hạn chế, bất cập nghiêm trọng và kiến nghị QH xem xét sửa đổi ngay một số điều của Luật BVMT năm 2020 ngay tại Kỳ họp thứ 10 này để khơi thông nguồn lực. Đồng thời, ban hành và triển khai ngay các biện pháp cấp bách kiểm soát, khắc phục tình trạng ô nhiễm không khí tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. QH dự kiến sẽ ban hành Nghị quyết về chuyên đề giám sát quan trọng này.
ĐỀ XUẤT NHIỀU GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
Phát biểu thảo luận tại hội trường, đại biểu Nguyễn Văn Dương, Đoàn Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tỉnh Đồng Tháp cho rằng, theo báo cáo về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành”, hiện nay cả nước có khoảng 51.962 cơ sở y tế, bao gồm 13.641 cơ sở y tế công lập và khoảng 38.321 cơ sở y tế ngoài công lập. Tổng lượng nước thải y tế phát sinh trung bình hơn 52 triệu m3/năm. Tỷ lệ nước thải y tế của bệnh viện được xử lý đến nay đạt 98%.
So với thời điểm trước khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực thi hành, tỷ lệ nước thải y tế của bệnh viện được xử lý tăng 7%. Tổng lượng chất rắn y tế phát sinh trung bình hơn 184 triệu tấn/năm, trong đó chất thải rắn y tế nguy hại là 29.400 tấn/năm. Nhiều bệnh viện lớn đã đầu tư hệ thống xử lý đồng bộ công nghệ đốt, hấp, vi sóng khép kín, đáp ứng tiêu chuẩn môi trường.

Đại biểu Nguyễn Văn Dương phát biểu tại hội trường.
Tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Văn Dương cho rằng vẫn còn tồn tại những khó khăn. Đại biểu phân tích: Mặc dù Luật BVMT năm 2020 đã quy định việc thu gom, xử lý chất thải y tế theo mô hình cụm, tuy nhiên, với hàng ngàn cơ sở y tế từ bệnh viện lớn đến trạm y tế xã, phần lớn là quy mô nhỏ lẻ, phân bố rải rác đã gây khó khăn trong việc tổ chức thu gom và xử lý chất thải y tế tập trung. Bên cạnh đó, mạng lưới thu gom, lưu giữ và xử lý chất thải y tế ở nhiều địa phương, đặc biệt là miền núi, vùng thưa dân, vùng sâu, vùng xa còn thiếu, công nghệ lạc hậu.
Các cơ sở y tế, đặc biệt là các cơ sở y tế quy mô nhỏ còn gặp nhiều khó khăn trong việc lựa chọn giải pháp xử lý chất thải lây nhiễm, nước thải y tế. Việc áp dụng công nghệ xử lý chất thải y tế tiên tiến, hiện đại chưa được áp dụng rộng rãi do chi phí cao. Đội ngũ nhân sự được đào tạo bài bản về quản lý chất thải y tế tại các cơ sở y tế còn thiếu. Kinh phí duy trì vận hành các lò đốt, hệ thống xử lý tập trung còn hạn chế, nhất là khi giá nhiên liệu tăng, trong khi nguồn thu dịch vụ y tế chưa đủ bù đắp.
Bên cạnh đó, chất thải y tế tuy chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng lượng chất thải phát sinh nhưng nguy cơ gây ô nhiễm và gây lây nhiễm rất cao nếu không được quản lý đúng cách. Làm tốt công tác này không chỉ BVMT mà còn bảo vệ chính sức khỏe của người dân, của đội ngũ thầy thuốc và của cả thế hệ tương lai.
Từ thực tế nêu trên, đại biểu Nguyễn Văn Dương đề xuất Chính phủ cần có chính sách ưu đãi tín dụng, hỗ trợ đầu tư hạ tầng xử lý tập trung, đặc biệt tại các địa phương khó khăn, khuyến khích hình thành các trung tâm xử lý chất thải y tế liên vùng thay vì mỗi bệnh viện đầu tư nhỏ lẻ gây tốn kém.
Cùng với đó, Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần phối hợp rà soát, cập nhật quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về xử lý chất thải y tế, bổ sung tiêu chí cho các công nghệ mới như xử lý không đốt, hấp tiệt trùng, vi sóng, bảo đảm thân thiện môi trường và tiết kiệm năng lượng. Đồng thời, tăng cường giám sát chuỗi thu gom, vận chuyển, xử lý, áp dụng số hóa, truy xuất nguồn gốc chất thải y tế nguy hại, tránh thất thoát.

Đại biểu Phạm Văn Hòa phát biểu.
Cũng thảo luận vấn đề này, đại biểu Phạm Văn Hòa, Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp đề nghị: Chính phủ, địa phương quan tâm tiếp tục triển khai mô hình phổ biến sâu rộng Luật BVMT và các văn bản dưới luật có liên quan đến tận người dân, nhất là những nơi xảy ra ô nhiễm môi trường chưa khắc phục được, nâng cao nhận thức của người dân trong việc BVMT xanh.
Chuyên môn hóa cán bộ quản lý tài nguyên và môi trường cấp xã, phường trong phân cấp quản lý địa bàn gần dân, sát dân để xử lý tình huống kịp thời khi có sự cố môi trường xảy ra; vì hầu như những lĩnh vực này, địa phương bố trí cán bộ tài nguyên và môi trường là kiêm nhiệm.
Bố trí ngân sách cũng như xã hội hóa trong việc xây dựng nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt theo công nghệ mới, thân thiện với môi trường; vì phần lớn các địa phương đều có khu, bãi xử lý rác thải bằng thủ công, chủ yếu là chôn lấp không an toàn, gây ô nhiễm khu vực lân cận, khu dân cư gần bãi rác, gây bức xúc trong dân.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi về các cơ chế, chính sách đặc thù đủ hấp dẫn để khuyến khích doanh nghiệp như về thuế, về đất đai, lãi suất tín dụng và đơn giản hóa thủ tục đầu tư cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực này. Thời gian qua, nhiều địa phương kêu gọi đầu tư nhưng doanh nghiệp không mặn mà, vì cho rằng đầu tư vốn cao, thời gian dài, hiệu quả kinh tế thấp, thủ tục thuê đất rất khó khăn.

Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý sai phạm trong việc chấp hành pháp luật về BVMT, giám sát của cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc và người dân, có kiến nghị khắc phục hậu quả do môi trường gây ra, cũng như hậu giám sát để phòng ngừa việc khắc phục nửa vời hoặc chai lì, nhất là những nơi thường xảy ra ô nhiễm như khu, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư, làng nghề, nơi sản xuất chế biến vật liệu, sản phẩm thiếu thân thiện với môi trường.
Cương quyết di dời, giải tỏa những cơ sở sản xuất, kinh doanh, hộ gia đình có nguy cơ cao về tiếng ồn, gây ô nhiễm trong không khí, trong khói bụi, chất thải độc hại từ các nhà máy, hiệu ứng nhà kính...; các khu dân cư, trường học, bệnh viện. Kiểm soát chặt chẽ cơ sở sản xuất hóa chất, chất rắn độc hại, phòng ngừa sự cố xảy ra cho cộng đồng dân cư.

Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đồng Tháp tham dự phiên họp toàn thể.
Đại biểu Phạm Văn Hòa mong Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quan tâm đầu tư xây dựng kè chống sạt lở bờ sông, bờ biển ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long và đập chống xâm nhập mặn ở các tỉnh ven biển. Nơi đây đều bị sạt lở rất nghiêm trọng cũng như nước biển dâng cao, xâm nhập mặn vào những nhánh sông, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân, nhất là những năm bị hạn hán. Xây dựng hồ bể chứa nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, sinh hoạt trong vùng. Ngân sách mỗi tỉnh có hạn nên cần sự trợ giúp của Trung ương.
Đối với các dự án đầu tư có nguy cơ ảnh hưởng đến môi trường, cần có đánh giá tác động theo quy định của pháp luật và nâng cao chất lượng thẩm định, đánh giá công nghệ sản xuất nhập từ nước ngoài để đề phòng nhập những công nghệ lạc hậu, cũ kĩ của nước ngoài rất có khả năng gây ảnh hưởng nguy hại đến đến môi trường, với phương châm là không đánh đổi môi trường để phát triển kinh tế thông thường.












