Đại biểu Thạch Phước Bình: Hoàn thiện chính sách việc làm - Động lực thúc đẩy thị trường lao động bền vững
Đóng góp dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi), đại biểu Thạch Phước Bình tập trung phân tích những điểm mới trong dự thảo luật, làm rõ các bất cập trong quy định hiện hành, đồng thời đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách việc làm, hỗ trợ người lao động (NLĐ), mở rộng cơ hội tiếp cận việc làm bền vững và đảm bảo an sinh xã hội…
Tại Hội nghị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) chuyên trách lần thứ 7, Quốc hội khóa XV vào chiều ngày 25/3 tại Hà Nội, vấn đề sửa đổi, bổ sung Luật Việc làm đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của các đại biểu, chuyên gia và các cơ quan chức năng. Trong bối cảnh thị trường lao động Việt Nam đang có nhiều biến động, việc hoàn thiện chính sách việc làm không chỉ giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực mà còn tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Với trách nhiệm của đại biểu Quốc hội và sự gắn bó chặt chẽ với thực tiễn đời sống lao động tại địa phương, đại biểu Thạch Phước Bình, Tỉnh ủy viên, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Trà Vinh đã có những ý kiến đóng góp sâu sắc, thực tiễn về dự thảo Luật Việc làm (sửa đổi). Trong đó tập trung phân tích những điểm mới trong dự thảo luật, làm rõ các bất cập trong quy định hiện hành, đồng thời đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chính sách việc làm, hỗ trợ NLĐ, mở rộng cơ hội tiếp cận việc làm bền vững và đảm bảo an sinh xã hội.

Quang cảnh Hội nghị ĐBQH hoạt động chuyên trách lần thứ 7, Quốc hội khóa XV. Ảnh: quochoi.vn
Điều 23 - Hệ thống thông tin thị trường lao động.
Khoản 1 Điều 23 đã xác định hệ thống thông tin thị trường lao động là công cụ phục vụ công tác quản lý, nghiên cứu, hoạch định chính sách. Tuy nhiên, để phù hợp với Nghị quyết số 42-NQ/TW, cần bổ sung nội dung về sự linh hoạt, hội nhập, hiệu quả.
Cụ thể: Đề xuất bổ sung quy định về tích hợp công nghệ AI, dữ liệu lớn (Big Data), dự báo lao động, nhằm nâng cao khả năng phân tích thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nêu rõ việc cập nhật dữ liệu theo thời gian thực (real-time), đảm bảo tính đồng bộ, liên thông với hệ thống dữ liệu về an sinh xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), giáo dục nghề nghiệp.
Khoản 2 Điều 23 quy định về việc kết nối hệ thống thông tin thị trường lao động với các cơ sở dữ liệu khác. Tuy nhiên, để đảm bảo tính hiệu quả, cần làm rõ các tiêu chuẩn kỹ thuật khi kết nối, tránh tình trạng dữ liệu rời rạc, không đồng bộ. Đồng thời, bổ sung cơ chế giám sát, kiểm định chất lượng dữ liệu, đảm bảo thông tin chính xác, minh bạch.
Khoản 3 Điều 23 quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về việc làm ở trung ương, nhưng chưa xác định rõ trách nhiệm của các địa phương. Để nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm như Công ước 88 của ILO, cần quy định cụ thể vai trò của Sở Nội vụ các tỉnh/thành phố, trung tâm dịch vụ việc làm trong việc cập nhật, cung cấp dữ liệu.

Đại biểu Thạch Phước Bình thảo luận Luật Việc làm. Ảnh: quochoi.vn
Điều 24 - Thông tin thị trường lao động.
Khoản 1 Điều 24 đã liệt kê các nhóm thông tin quan trọng. Tuy nhiên, cần mở rộng thêm một số nội dung phù hợp với yêu cầu hội nhập và chuyển đổi số, cụ thể: Thông tin về xu hướng lao động trong các ngành nghề mới (công nghệ cao, kinh tế xanh, kinh tế số, công việc tự do, lao động di cư…). Thông tin về nhu cầu đào tạo lại, nâng cao kỹ năng, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp. Dữ liệu về NLĐ thất nghiệp, nhóm yếu thế (lao động khuyết tật, lao động di cư, lao động phi chính thức) để có chính sách hỗ trợ phù hợp.
Khoản 2 Điều 24 yêu cầu các bộ, ngành cung cấp dữ liệu cho cơ quan quản lý nhà nước về việc làm. Tuy nhiên, cần bổ sung cơ chế chế tài đối với các đơn vị không thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp thông tin. Hướng dẫn về phương thức thu thập dữ liệu, đảm bảo tính đồng nhất giữa các đơn vị.
Điều 25 - Khai thác hệ thống thông tin thị trường lao động.
Khoản 1 Điều 25 quy định nguyên tắc khai thác thông tin nhưng chưa đề cập đến tính bảo mật dữ liệu cá nhân, cần bổ sung nội dung về: Quyền riêng tư của NLĐ khi thông tin của họ được lưu trữ và khai thác. Quy định về xử lý vi phạm khi có hành vi sử dụng thông tin sai mục đích.
Khoản 2 Điều 25 quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về việc làm nhưng cần cụ thể hóa thêm các nội dung về tích hợp hệ thống thông tin thị trường lao động với hệ thống bảo hiểm xã hội, BHTN, giúp NLĐ dễ dàng tiếp cận các chính sách hỗ trợ. Cập nhật và công khai dữ liệu thị trường lao động định kỳ (hàng tháng/quý/năm) theo chuẩn quốc tế.
Khoản 3 Điều 25 quy định quyền tiếp cận thông tin nhưng cần bổ sung cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp, NLĐ dễ dàng khai thác dữ liệu qua nền tảng số. Công khai dữ liệu theo từng khu vực, ngành nghề, trình độ kỹ năng, mức lương trung bình, giúp NLĐ có cơ sở tìm việc phù hợp.
Điều 31 - Dịch vụ việc làm.
Khoản 1 Điều 31 cần bổ sung thêm nội dung “hỗ trợ đào tạo, nâng cao kỹ năng cho NLĐ” vào phạm vi dịch vụ việc làm để phù hợp với xu hướng phát triển thị trường lao động linh hoạt và yêu cầu về nâng cao chất lượng lao động.
Khoản 2 Điều 31, thực tiễn cho thấy hiện tại chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm và cơ chế quản lý đối với các tổ chức dịch vụ việc làm công. Cần bổ sung điều kiện hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm công để đảm bảo tính ổn định và tránh sự chi phối bởi các thay đổi chính trị, đúng với tinh thần Điều 9 Công ước 88 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
Khoản 4 Điều 31 cần làm rõ tiêu chí về điều kiện hoạt động kinh doanh dịch vụ việc làm theo phương thức thương mại điện tử, nhất là vấn đề bảo mật dữ liệu NLĐ và minh bạch thông tin tuyển dụng.
Điều 32 - Đào tạo, cập nhật kiến thức, nghiệp vụ chuyên môn về dịch vụ việc làm.
Hiện nay, pháp luật chưa có quy định cụ thể về tiêu chuẩn của nhân viên tư vấn, giới thiệu việc làm (cả khu vực công và tư). Để phù hợp với Điều 9 Công ước 88 của ILO, cần bổ sung quy định về trình độ tối thiểu và yêu cầu đào tạo bắt buộc đối với nhân sự làm công tác dịch vụ việc làm. Kiến nghị bổ sung khoản 1 Điều 32 nội dung: “Nhà nước quy định tiêu chuẩn và chương trình đào tạo nghiệp vụ đối với nhân viên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ việc làm”.
Khoản 2 Điều 32 cần làm rõ cơ chế hỗ trợ tài chính đối với những tổ chức dịch vụ việc làm công hoặc tổ chức cung cấp dịch vụ việc làm phi lợi nhuận để đảm bảo họ có thể tham gia đào tạo mà không bị hạn chế bởi chi phí.
Khoản 3 Điều 32 cần bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan quản lý trong việc kiểm soát chất lượng chương trình đào tạo và tổ chức kiểm tra năng lực định kỳ đối với nhân viên dịch vụ việc làm. Điều này giúp đảm bảo tính chuyên nghiệp và ổn định của lực lượng này, phù hợp với yêu cầu của ILO.
Điều 33 - Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm
Khoản 2 Điều 32 cần quy định rõ hơn về tiêu chí đánh giá cơ sở vật chất và nhân sự của doanh nghiệp dịch vụ việc làm để đảm bảo chất lượng dịch vụ. Ví dụ: số lượng nhân viên tư vấn tối thiểu, trình độ chuyên môn bắt buộc, yêu cầu đào tạo định kỳ... Kiến nghị bổ sung: “Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm phải đảm bảo đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn phù hợp và tham gia đào tạo nghiệp vụ định kỳ theo quy định của cơ quan có thẩm quyền”.
Đối với khoản 4 Điều 32 việc doanh nghiệp tự định giá dịch vụ cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ nhằm tránh tình trạng thu phí quá cao hoặc có hành vi lạm dụng đối với NLĐ. Đề xuất bổ sung quy định: “Cơ quan quản lý nhà nước định kỳ kiểm tra, giám sát việc niêm yết và thu phí dịch vụ việc làm để đảm bảo quyền lợi của NLĐ”.
Điều 34 - Nguyên tắc BHTN
Khoản 4 Điều 34 cần nhấn mạnh việc ứng dụng công nghệ trong quản lý và giải quyết chế độ BHTN, giúp rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ và minh bạch thông tin cho NLĐ. Từ đó, đề xuất sửa đổi như sau: “Việc thực hiện BHTN phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia; ưu tiên ứng dụng công nghệ để rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ”.
Cùng với đó, đề xuất cần làm rõ quy định về đối tượng và cách thức hỗ trợ đào tạo nâng cao kỹ năng nghề tại Điểm b Khoản 1 Điều 35- Các chế độ BHTN theo hướng: “Hỗ trợ NLĐ tham gia đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng nghề, ưu tiên các ngành nghề có nhu cầu cao trên thị trường lao động và có khả năng thích ứng với sự thay đổi của nền kinh tế”. Đồng thời, khoản 2 Điều 35 nên quy định cụ thể hơn về mức hỗ trợ từ kết dư Quỹ BHTN trong trường hợp suy thoái kinh tế, thiên tai, dịch bệnh.
Điều 36 - Đối tượng tham gia BHTN
Điểm a khoản 1 Điều 36 nên mở rộng thêm đối tượng tham gia BHTN, bao gồm NLĐ làm việc trên nền tảng số (gig workers) hoặc lao động tự do có thu nhập ổn định, nhằm phù hợp với xu hướng lao động hiện nay.
Điểm d khoản 1 Điều 36 việc đưa các chức danh quản lý vào diện tham gia BHTN cần làm rõ về tính chất hợp đồng và quyền lợi để tránh chồng chéo với các quy định về bảo hiểm xã hội.
Khoản 4 Điều 32 quy định này trao quyền cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong việc mở rộng đối tượng tham gia BHTN, tuy nhiên chưa có tiêu chí cụ thể. Đề xuất bổ sung điều kiện như: “Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định việc tham gia BHTN đối với các nhóm lao động mới, trên cơ sở đánh giá tính ổn định của thu nhập, mức độ rủi ro thất nghiệp và khả năng tham gia đóng góp vào Quỹ BHTN”.
Điều 37 - Tham gia BHTN
Khoản 1 Điều 37 cần làm rõ hơn về quy trình xác định đối tượng tham gia BHTN và sự đồng bộ với bảo hiểm xã hội bắt buộc. Hiện nay, một số nhóm lao động không chính thức, lao động làm việc theo hợp đồng ngắn hạn có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận BHTN. Đề xuất bổ sung quy định mở rộng diện bao phủ để đảm bảo quyền lợi cho nhóm lao động này. Đồng thời, khoản 2 Điều 37 quy định về việc ghi nhận quá trình tham gia BHTN trong sổ bảo hiểm xã hội là hợp lý. Tuy nhiên, cần bổ sung cơ chế kiểm tra, xác minh để tránh tình trạng người sử dụng lao động kê khai sai hoặc không thực hiện đúng nghĩa vụ đóng BHTN.
Điều 38 - Đóng BHTN
Khoản 1 Điều 38 quy định mức đóng tối đa 1% đối với NLĐ, người sử dụng lao động và hỗ trợ từ ngân sách nhà nước là hợp lý. Tuy nhiên, cần xem xét thêm phương án linh hoạt hơn trong giai đoạn kinh tế suy thoái, như giảm mức đóng tạm thời để hỗ trợ doanh nghiệp và NLĐ. Khoản 2 quy định về thời điểm đóng linh hoạt cho lao động hưởng lương theo sản phẩm, khoán là phù hợp.
Tuy nhiên, cần có hướng dẫn chi tiết để tránh tình trạng lạm dụng, trì hoãn đóng bảo hiểm. Khoản 4 quy định NLĐ không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không phải đóng BHTN cần được làm rõ hơn. Cần bổ sung quy định về cách tính nếu NLĐ nghỉ gián đoạn trong tháng nhưng vẫn có ngày làm việc. Khoản 6 cần quy định rõ mức giảm đóng BHTN cho người sử dụng lao động khi tuyển dụng lao động là người khuyết tật. Nếu giới hạn giảm đóng không quá 12 tháng thì sau thời gian này, doanh nghiệp có thể bị tăng chi phí, làm giảm động lực tuyển dụng lao động khuyết tật. Khoản 7 cần làm rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động khi không đóng đủ BHTN cho NLĐ trước khi chấm dứt hợp đồng. Nếu yêu cầu doanh nghiệp phải trả khoản tiền tương ứng với chế độ BHTN, cần có cơ chế giám sát, chế tài xử phạt đủ mạnh để đảm bảo quyền lợi cho NLĐ.
Điều 39 - Căn cứ đóng BHTN
Khoản 1 quy định về căn cứ đóng BHTN giữa hai nhóm lao động (hưởng lương do Nhà nước quy định và do người sử dụng lao động quyết định) là hợp lý. Tuy nhiên, cần làm rõ hơn về các khoản phụ cấp được tính vào tiền lương làm căn cứ đóng BHTN, đặc biệt đối với lao động hợp đồng ngắn hạn. Khoản 2 quy định mức trần đóng BHTN bằng 20 lần mức lương tối thiểu vùng có thể hợp lý để hạn chế gánh nặng cho doanh nghiệp, nhưng cũng cần đánh giá tác động đối với nhóm lao động có thu nhập cao, nhằm đảm bảo tính công bằng trong việc đóng và hưởng BHTN.
Khoản 3 việc tạm dừng đóng BHTN khi NLĐ bị tạm giam hoặc tạm đình chỉ công việc là hợp lý. Tuy nhiên, quy định về đóng bù cần được hướng dẫn cụ thể để tránh tranh chấp giữa NLĐ và người sử dụng lao động. Khoản 4 cần bổ sung cơ chế để đảm bảo tính minh bạch khi truy thu, truy đóng BHTN, tránh trường hợp doanh nghiệp cố tình chậm đóng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ.
Điều 40 - Thời gian đóng BHTN
Khoản 1 quy định tổng thời gian đóng BHTN là cơ sở để xét hưởng chế độ là hợp lý. Tuy nhiên, cần có quy định cụ thể về thời gian gián đoạn có được cộng dồn hay không, tránh ảnh hưởng đến quyền lợi của NLĐ có quá trình làm việc không liên tục. Khoản 2 quy định tính lại thời gian đóng từ đầu sau khi chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp là hợp lý để tránh trục lợi chính sách. Tuy nhiên, cần bổ sung cơ chế bảo lưu thời gian đóng BHTN để NLĐ không bị thiệt thòi khi chuyển đổi công việc. Khoản 3 cần làm rõ hơn mối quan hệ giữa BHTN và trợ cấp mất việc làm, trợ cấp thôi việc. Một số trường hợp NLĐ có thể nhầm lẫn giữa các chế độ này và gặp khó khăn trong quá trình hưởng quyền lợi. Khoản 4 quy định Chính phủ hướng dẫn về thời gian đã đóng BHTN nhưng chưa hưởng trợ cấp cần được cụ thể hóa hơn. Cần có hướng dẫn rõ về cách tính bảo lưu thời gian đóng và điều kiện để tiếp tục hưởng BHTN trong trường hợp NLĐ chuyển đổi công việc.