Đại tướng Nguyễn Chí Thanh - người cộng sản kiên trung, mẫu mực, nhà lãnh đạo tài năng
Với 53 tuổi đời, hơn 30 năm cống hiến cho Đảng và Nhân dân, cuộc đời và sự nghiệp của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là tấm gương sáng của người cộng sản kiên trung, mẫu mực, nhà lãnh đạo tài năng, người con ưu tú của dân tộc, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tên khai sinh là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 1/1/1914 trong gia đình nông dân tại thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên (nay là Thừa Thiên Huế). Khi mới 17 tuổi, Nguyễn Vịnh được giác ngộ cách mạng và tham gia đấu tranh chống lại bọn cường hào, những năm 1936 - 1939 Nguyễn Vịnh tham gia phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, sau đó được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1937.
Trên cương vị Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên ở tuổi 24, tháng 9/1938, Đồng chí lãnh đạo quần chúng cách mạng đấu tranh làm thất bại dự án tăng thuế của Pháp và chính quyền Nam triều. Cuối năm 1938, Đồng chí bị địch bắt và được thả tự do vì không đủ bằng chứng và tiếp tục hoạt động, lãnh đạo, chỉ đạo nhiều cuộc mít tinh, biểu tình của Nhân dân đấu tranh ngăn chặn những cuộc đàn áp, khủng bố của thực dân Pháp. Giữa năm 1939 đến cuối năm 1941, Đồng chí bị địch bắt lần thứ 2, giam cầm tại nhà lao Thừa Phủ (Huế), Lao Bảo (Quảng Trị) và Nhà đày Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk). Ở nhà tù Lao Bảo, Đồng chí lập ra “Tổ chức bí mật” tập hợp lực lượng, thống nhất hành động, thúc đẩy phong trào cách mạng, bắt liên lạc với tổ chức đảng từ bên ngoài. Tại nhà đày Buôn Ma Thuột, Đồng chí tham gia “Lực lượng trung kiên” - một tổ chức bí mật trong tù đóng vai trò như chi bộ cộng sản và tiếp tục đấu tranh quyết liệt, ngoan cường. Đầu năm 1942, Đồng chí đào thoát khỏi Nhà đày Buôn Ma Thuột, bí mật về Quảng Điền cùng một số đồng chí khác thành lập Tỉnh ủy lâm thời tỉnh Thừa Thiên. Tháng 7 năm 1943, trên đường công tác, Đồng chí bị địch bắt lần thứ 3 và đưa trở lại Nhà đày Buôn Ma Thuột. Sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (tháng 3 năm 1945), Đồng chí được trả tự do và tiếp tục hoạt động cách mạng ở Trung Bộ chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Mặc dù 3 lần bị đế quốc bắt giam nhưng mỗi lần vượt ngục hay được thả, Đồng chí đều trở về với cách mạng, với Nhân dân, tiếp tục hoạt động, xây dựng cơ sở đảng, đẩy mạnh phong trào cách mạng ở tỉnh Thừa Thiên.
Tháng 8/1945, Đồng chí được bầu vào Ban Chấp Hành Trung ương Đảng và được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên Nguyễn Chí Thanh. Ngày 31/8/1945, Hội nghị đại biểu các tỉnh Trung Bộ tại Huế đã quyết định thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Trung Bộ và bầu đồng chí Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Xứ ủy Trung Bộ. Cuối năm 1946 đến năm 1949, trên cương vị Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, Bí thư Phân khu Bình - Trị - Thiên rồi Bí thư Liên khu ủy IV, Đồng chí đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân vào thực tiễn chiến trường Thừa Thiên. Kiên trì quan điểm “dân là gốc”, Đồng chí đã đưa ra những quyết định táo bạo, có ý nghĩa chuyển hướng lãnh đạo, xoay chuyển lại tình thế, tạo ra các bước ngoặt cách mạng, đưa cuộc kháng chiến ở mặt trận Huế dần khôi phục và mở ra cục diện mới. Nhờ đó, phong trào cách mạng Bình - Trị - Thiên đã vươn lên hòa nhập với phong trào cả nước, góp phần chặn đứng âm mưu chia cắt chiến lược của thực dân Pháp. Đồng chí Nguyễn Chí Thanh trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến Bình - Trị - Thiên khói lửa, xứng đáng với danh hiệu “Vị tướng du kích” mà Bác Hồ trao tặng.
Đầu năm 1950, Đồng chí được phân công phụ trách Ban Tuyên huấn Trung ương. Tháng 2 năm 1950, Đồng chí được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn Thanh niên Việt Nam. Tháng 7 năm 1950, Đồng chí được điều động vào Quân đội, giữ chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Phó Bí thư Tổng Chính ủy. Tháng 2 năm 1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng tổ chức tại Tuyên Quang, Đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bầu vào Bộ Chính trị. Tháng 7 năm 1951 đến cuối năm 1960, Đồng chí làm Giám đốc Trường Chính trị trung cấp Quân đội (nay là Học viện Chính trị). Năm 1959, Đồng chí được phong quân hàm Đại tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1960, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư.
Năm 1961, nông nghiệp trở thành mặt trận hàng đầu ở miền Bắc, Đồng chí được giao làm Trưởng ban Công tác nông thôn Trung ương - lãnh đạo, chỉ đạo một ngành kinh tế trọng yếu của đất nước. Để giải quyết vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp, Đồng chí đã xây dựng hợp tác xã trên 3 mặt (cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và nâng cao đời sống xã viên), đồng thời củng cố vai trò chiến lược của hợp tác nông nghiệp trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, động viên và tổ chức được hàng vạn thanh niên ra tiền tuyến; từ đó không chỉ bảo đảm một phần quan trọng về lương thực, thực phẩm cung cấp cho Nhân dân mà còn góp phần xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc, bước đầu chi viện cho cách mạng miền Nam, góp phần vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước…
Trên cương vị Bí thư Trung ương Cục kiêm Chính ủy quân giải phóng miền Nam, Đồng chí đã góp phần xác định đúng việc chuyển hướng chiến lược của Mỹ từ “Chiến tranh đặc biệt” sang “Chiến tranh cục bộ” (1965 - 1968), đưa ra những đánh giá, phân tích khoa học và biện chứng về thực chất sức mạnh của Mỹ, so sánh lực lượng giữa ta và địch, tìm ra những mâu thuẫn, chủ yếu của đối phương, từ khẳng định quyết tâm đánh Mỹ và niềm tin đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Những quan điểm của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh về chủ nghĩa anh hùng cách mạng được coi là khâu đột phá về tư tưởng cho quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; thể hiện tầm tư duy quân sự của nhà lãnh đạo tài năng, có uy tín lớn của Đảng. Đại tướng khẳng định: “Chủ nghĩa anh hùng cách mạng của chúng ta mang trên mình nó một tư tưởng lớn của thời đại là không sợ Mỹ, dám đánh Mỹ, quyết đánh Mỹ, đấu tranh vì độc lập, dân chủ, hòa bình và tiến bộ xã hội”.
Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng và dân tộc ta mãi khắc ghi tư tưởng chỉ đạo tác chiến mang đậm dấu ấn Đại tướng Nguyễn Chí Thanh: “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”, “cứ đánh Mỹ khắc tìm ra cách đánh hay” lập các “vành đai diệt Mỹ”... Những phân tích, nhận định, đánh giá tình hình chiến trường miền Nam của Đại tướng đã góp phần cùng Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đánh giá đúng sức mạnh thật sự của đế quốc Mỹ, sự phát triển của cách mạng miền Nam, từ đó hoạch định đường lối kháng chiến. Nhiều quan điểm, tư tưởng của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thể hiện chiến lược tiến công với niềm tin nhất định thắng Mỹ, cùng những phương châm chỉ đạo tác chiến độc đáo được Ban Chấp hành Trung ương Đảng nghiên cứu, chắt lọc đưa vào các nghị quyết Trung ương, kế hoạch cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1968, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 6 năm 1967, theo yêu cầu của Trung ương, Đồng chí ra Hà Nội để báo cáo tình hình, kế hoạch hoạt động của các chiến trường và nhận thêm chỉ thị mới. Ngày 6/7/1967, đúng vào ngày lên đường trở lại chiến trường miền Nam, Đồng chí đột ngột qua đời sau cơn đau tim nặng.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, với tác phong sâu sát thực tiễn, gắn bó máu thịt với Nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh thường xuống cơ sở nghiên cứu tình hình, tìm những hình thức và biện pháp thích hợp thực hiện đường lối của Đảng. Đồng chí đặc biệt coi trọng việc chỉnh đốn các tổ chức của Đảng và phát triển các đoàn thể quần chúng. Từ sáng kiến của Đồng chí, các cơ sở đảng và đoàn thể được sắp xếp gọn nhẹ, tăng cường hiệu lực. Các cuộc hội nghị được chuẩn bị và rút ngắn thời gian nhưng hiệu quả. Cán bộ, đảng viên được nâng cao về nhận thức đường lối, sửa đổi lề lối làm việc.
Với 53 tuổi đời, hơn 30 năm cống hiến cho Đảng và Nhân dân, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh đã được Đảng, Nhà nước tặng, truy tặng Huân chương Sao vàng, Huân Chương Hồ Chí Minh hạng nhất, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân Chương Chiến thắng hạng Nhất và nhiều phần thưởng cao quý khác. Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1/1/1914 - 1/1/2024) là dịp để mỗi người chúng ta ôn lại cuộc đời hoạt động và những cống hiến to lớn của Đồng chí Nguyễn Chí Thanh đối với Đảng và cách mạng Việt Nam. Qua đó, tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, lịch sử, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; khơi dậy khát vọng xây dựng và phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.