Dấn thân theo cách mạng
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, có bao câu chuyện xúc động về những thanh niên sinh ra trong gia đình có địa vị, điều kiện khá giả nhưng đã lựa chọn con đường gian khổ, hy sinh vì lý tưởng và vững bước dưới cờ Đảng.
Với xuất phát điểm là những người trong các gia đình có vị thế, nhưng theo một cách riêng, họ đã lựa chọn cống hiến chứ không hưởng thụ, lựa chọn hy sinh chứ không đòi hỏi đặc quyền. Nhà cách mạng Khuất Duy Tiến, nguyên Phó bí thư Thành ủy Hà Nội và Anh hùng, liệt sĩ Vương Đình Cung là hai trong số những tấm gương như thế.
Dấn thân theo cách mạng
Khi tìm hiểu về cuộc đời nhà cách mạng Khuất Duy Tiến, qua tư liệu và lời kể từ người thân trong dòng họ Khuất, tôi được biết ông là con trai duy nhất của Chánh tổng Tường Phiêu, một địa danh thuộc huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội).
Theo lời kể của chị Hạ Chí Nhân (con gái nhà cách mạng Hoàng Quốc Việt và là cháu gọi ông Khuất Duy Tiến là cậu ruột) thì ông Khuất Duy Tiến sinh ra, lớn lên trong một dòng họ hiển vinh, có nhiều người đỗ đạt, làm quan. Ông còn là “cậu ấm” duy nhất trong một gia đình có 8 người con và thân phụ ông là cụ Khuất Duy Tiết, từng giữ chức Chánh tổng Tường Phiêu, huyện Tùng Thiện, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội). “Qua lời kể của mẹ, tôi được biết ông ngoại tuy là Chánh tổng nhưng lại có tính thương người. Một lần, cụ đi kiểm tra đê, rồi nhận trực thay để người canh đê về ăn cơm, nghỉ ngơi. Tác phong gần gũi, thương dân ấy đã khiến cụ không được lòng quan và cả chính quyền thực dân. Đó cũng là nguyên nhân dẫn tới việc sau này cụ bị mất chức Chánh tổng” - chị Nhân cho biết.

Nhà cách mạng Khuất Duy Tiến. Ảnh gia đình cung cấp
Sinh ra và lớn lên trong gia đình có 8 người con, lại là con trai duy nhất, Khuất Duy Tiến được gia đình cho ăn học trường Tây với kỳ vọng sẽ nối nghiệp cha để ra làm quan cho chính quyền thực dân. 17 tuổi, ông theo học Cao đẳng Thương mại Đông Dương. Vốn thông minh, học giỏi, ông được bạn bè đặt biệt danh “Tiến to đầu”. Nhưng thay vì tiến thân trên con đường quan lộ, chàng thanh niên ấy đã tìm đến các sách, báo tiến bộ của Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngôi nhà kín cổng cao tường của Chánh tổng Tường Phiêu trở thành nơi nhiều bạn bè cùng chí hướng với ông như Trần Huy Liệu, Trường Chinh thường xuyên lui tới hoạt động cách mạng.
Năm 1931, Khuất Duy Tiến bị thực dân Pháp bắt và đày đi Côn Đảo. Sự kiện người con trai duy nhất của một gia đình giàu có, uy quyền bị bắt vì theo Việt Minh đã gây xôn xao khắp vùng.
Năm 1936, Khuất Duy Tiến được trả tự do và tiếp tục về hoạt động tại Hà Nội. Hai năm sau, với chủ trương cài người vào hoạt động công khai, Đảng Cộng sản Đông Dương đã đưa ông ra tranh cử nghị viện. Ngày đó, mặc dù đã ở vào tình cảnh khó khăn sau khi người cha bị mất chức Chánh tổng, nhưng gia đình đã cố gắng thu vén bán ruộng, vườn để ông có được một khoản tiền tham gia tranh cử. Năm ấy, Khuất Duy Tiến trúng cử với số phiếu cao, nhưng dường như “đánh hơi” thấy mầm họa, thực dân Pháp đã hủy bỏ kết quả bầu cử và đưa ông về quản thúc tại quê nhà. Chính trong thời gian quản thúc ở làng Thuần Mỹ, nhờ uy tín của ông mà các tài liệu, sách báo của Đảng đã đến với thanh niên yêu nước trong làng, xã. Đầu năm 1940, tổ chức thanh niên phản đế làng Thuần Mỹ được thành lập.
Khuất Duy Tiến còn được biết đến là người có tài thuyết phục quần chúng hiếm có. Nhờ tài thuyết phục quần chúng của ông mà năm 1936 khi bị quản thúc ở quê, ông đã kể về nỗi thống khổ của một người dân mất nước, kêu gọi mọi người đi theo Việt Minh để giành độc lập dân tộc. Tháng 3-1945, sau khi vượt ngục Sơn La về Hà Nội chuẩn bị tham gia giành chính quyền, ông đã thành công trong việc vận động giới công thương Hà Nội đóng góp tài chính cho hoạt động cách mạng.
Nhà cách mạng Khuất Duy Tiến đã cống hiến hết mình cho sự nghiệp cách mạng và ông đã từng được giao nhiều trọng trách quan trọng như: Bí thư Tỉnh ủy Nam Định kiêm Thái Bình; Phó bí thư Thành ủy Hà Nội; Phó chủ tịch Ủy ban hành chính Hà Nội...
Con trai Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên
Anh hùng, liệt sĩ Vương Đình Cung xuất thân trong một gia đình có truyền thống cách mạng ở tỉnh Hưng Yên là con trai duy nhất của Bí thư Tỉnh ủy Hưng Yên Lê Quý Quỳnh (tức Vương Văn Thành).
Sinh ra trong ngôi nhà gỗ 3 gian - nơi từng diễn ra hội nghị thành lập Đảng bộ huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên, Vương Đình Cung được gia đình cho ăn học chu đáo.
Ông Vương Như Kiên, chú ruột anh hùng, liệt sĩ Vương Đình Cung kể lại: “Vì là người cháu đích tôn của dòng họ Vương nên Cung được mọi người rất cưng chiều, quý mến. Cung được nuôi ăn học, rồi lên Hà Nội học ở Trường cấp 3 Yên Hòa, sau đó vào nhập học tại Trường Đại học Nông nghiệp”.

Anh hùng, liệt sĩ Vương Đình Cung. Ảnh gia đình cung cấp
Là học sinh xuất sắc, nhiều lần được cử đi học nước ngoài, nhưng Vương Đình Cung đều từ chối các cơ hội du học, bởi một khát vọng lớn hơn đang cháy bỏng trong anh, đó là được gia nhập quân ngũ. Năm 1965, khi Quân đội chưa có chủ trương huy động sinh viên ra trận, Vương Đình Cung đã viết thư cho bố: “Bố ạ, con sẽ đi bộ đội vì nguyện vọng của con là trở thành một chiến sĩ cách mạng... Bây giờ chỉ có bố là cho con đi được thôi. Bố nói với các chú ở Tỉnh đội tuyển con vào nhé!”.
Đây cũng là lần duy nhất Vương Đình Cung nhờ “uy” bố không phải để tìm chỗ an toàn mà để được ra chiến trường. Trước nguyện vọng tha thiết ấy, Bí thư Tỉnh ủy Lê Quý Quỳnh đã đồng ý cho cậu con trai duy nhất nhập ngũ vào Tiểu đoàn Bãi Sậy, một đơn vị của Tỉnh đội Hưng Yên đang chuẩn bị hành quân vào chiến trường miền Nam.
Trên chiến trường, tinh thần “Vào Nam là để ra trận” của Vương Đình Cung đã có dịp được thể hiện. Cựu chiến binh Dương Văn Tăng, người cùng nhập ngũ với Vương Đình Cung kể lại: “Vì là Tiểu đội phó nên Cung được phân công khiêng cỗ chân súng nặng hơn 50kg cùng ba lô, bao gạo. Mỗi khi tiểu đội có người ốm, Cung lại giành lấy phần khó khăn, nặng nhọc nhất”.
Chỉ sau 4 tháng hành quân, Vương Đình Cung đã vinh dự được kết nạp Đảng. Điều đặc biệt là nhiều lần cấp trên gợi ý đưa anh về tuyến sau hoặc cử đi học, Vương Đình Cung đều từ chối. Thiếu tướng Bùi Nam Hà, nguyên Phó tư lệnh Mặt trận B3 nhớ lại: “Một lần, tôi có trao đổi với chỉ huy Sư đoàn 10 để chuyển anh về văn phòng của quân lực B3, nhưng Vương Đình Cung từ chối, nhất quyết xin ở lại đơn vị chiến đấu”.
Ngày 7-5-1970, trong một chuyến công tác tại huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum, đơn vị của anh bị địch bao vây. Cựu chiến binh Nguyễn Trung An, người từng công tác với Vương Đình Cung xúc động kể lại: “Tuy lực lượng quá chênh lệch nhưng Vương Đình Cung và đồng đội vẫn chiến đấu quyết liệt với quân địch. Hết đạn, Vương Đình Cung đã dùng lưỡi lê xông lên đánh giáp lá cà với địch và anh dũng hy sinh trong trận chiến đó”.

Ông Vương Như Kiên (ngoài cùng bên phải, chú ruột của anh hùng, liệt sĩ Vương Đình Cung) ôn lại kỷ niệm về người tại ngôi nhà Vương Đình Cung được sinh ra, lớn lên. Ảnh: NGUYÊN HẠNH
Ngay sau khi Vương Đình Cung hy sinh, Trung ương Đoàn đã phát động phong trào học tập noi theo anh. Với câu nói nổi tiếng “Vào Nam là để ra trận”, anh được ví như Pa-ven của thanh niên miền Bắc.
Hai con người-hai thế hệ, xuất thân từ những gia đình có địa vị, điều kiện kinh tế cùng bao thuận lợi để tương lai họ có được cuộc sống đầy đủ, an toàn, nhưng đồng chí Khuất Duy Tiến và đồng chí Vương Đình Cung đã lựa chọn con đường của lý tưởng, của sự hy sinh. Họ đã chứng minh rằng, xuất thân không làm nên giá trị con người mà chính lựa chọn và hành động mới làm nên ý nghĩa cuộc đời. Họ xứng đáng là những tấm gương sáng về lý tưởng sống, về sự hy sinh thầm lặng./.
Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/cuoc-thi-viet-vung-buoc-duoi-co-dang/dan-than-theo-cach-mang-1013875











