Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng với việc thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân

Cuối năm 1886, thực dân Pháp đánh chiếm Cao Bằng, nhưng phải mất 10 năm sau chúng mới thiết lập được bộ máy cai trị ở Cao Bằng. Dưới chế độ thực dân Pháp, nhân dân các dân tộc tỉnh Cao Bằng liên tục đứng lên đấu tranh nhưng đều chưa giành được thắng lợi. Vì chưa có một chính đảng lãnh đạo, chưa có đường lối đúng đắn, đặc biệt là chưa có một lực lượng đủ sức mạnh để đối phó với kẻ thù.

Trong bối cảnh đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm con đường cứu nước đã đến với ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, sau khi tiếp thu tư tưởng đó, Người khẳng định: “không có lực lượng vũ trang thì không thể đánh thắng được bọn áp bức”. Tư tưởng chỉ đạo của Người được ghi rõ trong văn kiện đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày đầu mới thành lập, đó là “Tổ chức ra quân đội công nông”.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), chỉ sau một thời gian ngắn, Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên ở Cao Bằng cũng được thành lập (ngày 1/4/1930). Ngay từ khi mới ra đời, những người cộng sản Cao Bằng đã nhận thức sâu sắc về vai trò to lớn của lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang nên có chủ trương lựa chọn những cán bộ, đảng viên ưu tú ra nước ngoài học tập quân sự. Dưới sự chỉ đạo của Đảng, tháng 3/1931, Cao Bằng cử 4 đồng chí: Hoàng Hồng Việt, Hoàng Đình Hùng, Nguyễn Nam Hùng (tức Trần), Đàm Thế Vinh đi học sửa chữa và chế tạo vũ khí tại Trung Quốc; đầu năm 1932, sau một năm học tập, 4 đồng chí trở về được giao nhiệm vụ thành lập binh công xưởng tại vùng núi Lam Sơn, xã Hồng Việt (Hòa An) để sửa chữa, chế tạo vũ khí trang bị cho cán bộ, hội viên hoạt động bí mật…

Có Đảng lãnh đạo, có vũ khí và có nhân dân ủng hộ, phong trào cách mạng ngày càng phát triển mạnh, tình hình trong nước và trên thế giới diễn biến hết sức phức tạp và mau lẹ; chiến tranh thế giới lần thứ hai đang lan rộng, phát xít Nhật đánh chiếm nước ta…, thực dân Pháp hèn nhát dâng nước ta cho Nhật, nhân dân ta “một cổ hai tròng” nô lệ, chịu hai tầng áp bức bóc lột của Nhật, Pháp.

Trước tình hình đó, sau 30 năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu nước, ngày 28/1/1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chọn vùng đất thiêng Pác Bó, xã Trường Hà, châu Hà Quảng để về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người đã xây dựng Cao Bằng thành căn cứ địa cho phong trào cách mạng cả nước.

Tại Pác Bó, Người trực tiếp chỉ đạo xây dựng căn cứ địa Cao Bằng với tư tưởng chỉ đạo: “Muốn có một đội quân vũ trang mạnh trước hết phải có một đội quân tuyên truyền mạnh, đội quân chính trị vững”. Cùng với việc ra sức xây dựng thí điểm mặt trận Việt Minh ở 3 châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đề ra nhiệm vụ gấp rút chuẩn bị các đội tự vệ. Người chỉ thị “Ở đâu có Việt Minh thì ở đó phải có tự vệ và các đội tự vệ chiến đấu”. Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941), việc xây dựng lực lượng vũ trang được xúc tiến khẩn trương. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo cán bộ đang hoạt động ở Cao Bằng cần chọn những đồng chí cốt cán tốt nhất trong các đoàn thể cứu quốc: “để tổ chức các đội tự vệ và tự vệ chiến đấu, phải xây dựng được một lực lượng vũ trang sẵn sàng”. Công tác đào tạo cán bộ quân sự cũng được Người chú trọng, Người phân công đồng chí Cao Hồng Lĩnh lập trạm liên lạc ở Trung Quốc để đưa đón cán bộ sang hoặc tập quân sự. Với sự chỉ đạo đó, từ năm 1941 - 1944, có hơn 200 thanh niên Cao Bằng sang học tại các lớp quân sự ở Điền Đông, Liễu Châu (Trung Quốc).

Tại Cao Bằng, cuối năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao các đồng chí Lê Quảng Ba, Lê Thiết Hùng, Hoàng Sâm mở một lớp quân sự tập trung đầu tiên tại Pác Bó (Hà Quảng). Người rất quan tâm đến lớp huấn luyện này và trực tiếp đề ra kế hoạch huấn luyện, sau mỗi ngày Người gọi đồng chí phụ trách đến báo cáo tình hình, rút kinh nghiệm và đặt kế hoạch huấn luyện cho ngày hôm sau. Người trực tiếp giảng dạy về cách đánh du kích, cách điều tra nắm tình hình địch…

Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không chỉ quan tâm chỉ đạo về mặt tư tưởng, lý luận mà còn trực tiếp bắt tay xây dựng mặt tổ chức. Tháng 11/1941, Người quyết định thành lập đội du kích tập trung đầu tiên ở Pác Bó gồm 12 người, do đồng chí Lê Quảng Ba làm đội trưởng, Hoàng Sâm làm đội phó, Lê Thiết Hùng là chính trị viên. Đến năm 1942, các đội tự vệ xuất hiện ở nhiều nơi, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc quyết định xây dựng, tổ chức lực lượng vũ trang lên một bước mới.

Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22/12/1944.

Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân (tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam) thành lập ngày 22/12/1944.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đầu năm 1942, được sự giúp đỡ của một số cán bộ Trung ương đang hoạt động tại Cao Bằng, Đảng bộ Cao Bằng mở nhiều lớp huấn luyện quân sự cấp tỉnh để đào tạo cán bộ quân sự cho phong trào cách mạng. Lớp quân chính khóa I được mở tại Khuổi Nặm, Pác Bó (Hà Quảng) có khoảng 40 học viên, khóa II mở tại U Mả, xã Dân Chủ (Hòa An) có gần 100 học viên, khóa III mở tại Nguyên Bình khoảng 30 học viên, khóa IV mở tại Hà Quảng có rất nhiều học viên. Các khóa đều được tổ chức tại vùng các dân tộc ít người, được nhân dân giúp đỡ về ăn, ở, canh gác, bảo vệ…, sau các khóa học, học viên trở về các địa phương gây dựng, huấn luyện, tổ chức lực lượng vũ trang các cấp.

Để có cán bộ huấn luyện quân sự mà phong trào đang đòi hỏi, sau một thời gian hoạt động hiệu quả, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ thị cho đội du kích tập trung đầu tiên ở Pác Bó phân tán về các địa phương làm nhiệm vụ. Người chỉ thị cho Đảng bộ Cao Bằng: “Bây giờ là lúc phải tổ chức lực lượng vũ trang cho tới tận các địa phương, phải làm gấp. Nếu chần chừ sẽ không kịp đâu, chẳng mấy chốc mà Hồng quân Liên Xô sẽ tiêu diệt bọn phát xít. Lúc bấy giờ ta phải có đủ lực lượng để đứng lên giành chính quyền”. Thực hiện chỉ thị của Người, Tỉnh ủy tăng cường chỉ đạo các địa phương đẩy mạnh xây dựng các đội tự vệ. Đến đầu năm 1943, các xã, tổng thuộc các châu Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình đều có các đội tự vệ, các lớp huấn luyện quân sự. Tháng 8/1943, dưới sự chỉ đạo của Đảng, châu Hà Quảng tổ chức diễn tập quân sự tại Nà Sác với hơn 100 tự vệ tham gia, cuối năm 1943, một cuộc diễn tập với quy mô lớn hơn, có tới 1.000 tự vệ tham gia diễn ra tại châu Hòa An. Phong trào huấn luyện tự vệ trở nên rầm rộ khắp nơi, nhu cầu trang bị vũ khí của các đội càng trở nên quan trọng và cấp bách, tháng 3/1944, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chọn căn cứ Lam Sơn (Hòa An) để thành lập binh công xưởng do đồng chí Hoàng Đức Thạc (tức Lã) Bí thư Liên Tỉnh ủy chỉ đạo để sửa chữa, sản xuất vũ khí trang bị cho các đội tự vệ.

Trước khí thế của phong trào cách mạng ngày càng mạnh mẽ, ngày 13/8/1944, Liên Tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng họp hội nghị thảo luận về thời cơ và điều kiện khởi nghĩa vũ trang ở Cao - Bắc - Lạng. Khi lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Trung Quốc trở lại Pác Bó (cuối tháng 9/1944), Người nghe báo cáo lại toàn bộ tình hình và chủ trương khởi nghĩa của Liên Tỉnh ủy. Người phân tích hội nghị Liên Tỉnh ủy chỉ mới nắm được tình hình địa phương chứ chưa nắm được tình hình chung cả nước, sau đó Người khẳng định: “Bây giờ thời kỳ cách mạng hòa bình đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới… Cuộc đấu tranh bây giờ phải từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự, song hiện nay chính trị trọng hơn quân sự, phải tìm ra hình thức thích hợp thì mới có thể đẩy phong trào tiến lên”.

Để thực hiện phương châm hoạt động mới, lãnh tụ Hồ Chí Minh giao đồng chí Võ Nguyên Giáp chuẩn bị thành lập “Đội quân giải phóng”. Các đồng chí Võ Nguyên Giáp, Hoàng Đức Thạc, Lê Quảng Ba nghiên cứu thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân. Sự trưởng thành của lực lượng vũ trang Cao Bằng nói riêng và liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng nói chung là một trong những cơ sở quan trọng để “chọn trong hàng ngũ du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực”. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã vạch ra những nét cơ bản của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, giao nhiệm vụ cho đồng chí Võ Nguyên Giáp chuẩn bị thành lập.

Chấp hành chỉ thị của Người, với sự chuẩn bị khẩn trương, chặt chẽ, chu đáo về mọi mặt của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập ngày 22/12/1944 tại khu rừng Trần Hưng Đạo, châu Nguyên Bình, đội gồm 34 chiến sĩ do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng đã đóng góp xứng đáng cho sự ra đời của đội, trong đội có 25 đồng chí là con em các dân tộc Cao Bằng (dân tộc Tày 16 người, Nùng 5, Kinh 2, Mông 1, Dao 1). Các tỉnh Bắc Kạn 3 người, Thái Nguyên 2, Quảng Bình 2, Lạng Sơn 1, Thái Bình 1.

Vừa mới ra đời, đội lập được chiến công vang dội, trong 2 ngày 25 - 26/12/1944, đội tiến công tiêu diệt 2 đồn Phai Khắt, Nà Ngần, mở đầu cho những trang sử hào hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng đã ra quân là chiến thắng.

Đảng bộ và nhân dân Cao Bằng đã góp phần xứng đáng cho sự ra đời của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, trải qua khói lửa của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc đã kế thừa và phát huy truyền thống quê hương cội nguồn cách mạng, theo tiếng gọi của Đảng, lớp lớp thanh niên các dân tộc Cao Bằng hăng hái lên đường đánh giặc cứu nước, hàng nghìn chiến sĩ đã anh dũng chiến đấu và hy sinh vì độc lập, tự do của dân tộc, cùng với sự hy sinh mất mát đó, rất nhiều người con ưu tú của Cao Bằng trở thành những vị tướng lừng danh trên khắp các chiến trường và giữ những cương vị cấp cao trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, quân đội, góp phần xứng đáng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đinh Ngọc Viện

Nguồn Cao Bằng: https://baocaobang.vn/dang-bo-va-nhan-dan-cao-bang-voi-viec-thanh-lap-doi-viet-nam-tuyen-truyen-giai-phong-quan-3170567.html