'Đảng ta thật là vĩ đại'!

'Đảng ta thật là vĩ đại'. Đây là lời khẳng định chắc chắn về sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi, suốt 95 năm ra đời và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã cho thấy bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm và đạo đức của một Đảng chân chính: Tất cả vì lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc, của Nhân dân.

TP Thanh Hóa - một động lực tăng trưởng của xứ Thanh.

TP Thanh Hóa - một động lực tăng trưởng của xứ Thanh.

Sự lựa chọn của lịch sử

Cuối thế kỷ XIX, dân tộc Việt Nam rơi vào ách đô hộ của thực dân Pháp. Sau khi hoàn thành quá trình xâm lược và bình định bằng vũ lực, thực dân Pháp đã tiến hành các cuộc khai thác thuộc địa với quy mô ngày càng lớn nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ mạt, mở rộng thị trường tiêu thụ cho tư bản Pháp. Chúng thi hành một chính sách cai trị cực kỳ thâm độc nhằm đầu độc về văn hóa, ngu dân về giáo dục hòng buộc Nhân dân ta phải mãi mãi trong vòng nô lệ. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam phân hóa một cách sâu sắc. Trong đó, nổi lên hai mâu thuẫn lớn, đó là mâu thuẫn giai cấp (giữa giai cấp nông dân và giai cấp địa chủ) và mâu thuẫn dân tộc (giữa toàn thể Nhân dân Việt Nam và thực dân Pháp).

Song, ách áp bức dân tộc càng nặng thì sự phản kháng dân tộc càng cao, đấu tranh dân tộc càng mạnh. Không cam chịu thân phận nô lệ, Nhân dân ta, đặc biệt là các tầng lớp cần lao đã liên tiếp nổi dậy đấu tranh giành độc lập dân tộc, theo nhiều xu hướng, con đường chính trị khác nhau. Tuy nhiên, ngọn cờ đấu tranh theo khuynh hướng phong kiến đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp. Các phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản, dù mang đến hình thức đấu tranh mới mẻ, nhưng lại không phù hợp với đặc điểm lịch sử - xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, khi giai cấp tư sản, tiểu tư sản còn nhỏ yếu, hạn chế, chưa đủ sức đảm đương sứ mệnh lịch sử.

Trước yêu cầu lịch sử là tìm ra một lực lượng tiên phong, có đường lối đúng đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước để lãnh đạo cách mạng Việt Nam, thì ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là kết quả của quá trình vận động hợp quy luật, của sự kết hợp giữa ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đảng ra đời đã kết thúc giai đoạn khủng hoảng về đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đây là sự kiện lịch sử có ý nghĩa bước ngoặt, mở ra thời kỳ phát triển mới của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân tố quyết định đầu tiên, cơ bản đối với những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Những mốc son chói lọi

Đảng ta vĩ đại, trước hết là bởi Đảng đã vươn lên giải quyết nhiệm vụ lịch sử là giải phóng dân tộc, trở thành Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam với đường lối đúng đắn, khoa học và phù hợp nhất. Và thực tế trong suốt 95 năm qua đã chứng minh một cách đầy mạnh mẽ và thuyết phục cho điều đó.

Ngay từ khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành nhiều phong trào đấu tranh lớn, như cao trào cách mạng 1930-1931, với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh; cao trào đòi dân sinh, dân chủ 1936-1939; cao trào cách mạng giải phóng dân tộc 1939-1945. Đó ví như những cuộc tập dượt lớn, để khi thời cơ chín muồi, Đảng đã lãnh đạo toàn thể Nhân dân ta đứng lên giành chính quyền. Để rồi, thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đã làm thay đổi vận mệnh của dân tộc Việt Nam, đưa người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Đây cũng là thắng lợi vĩ đại đầu tiên sau 15 năm cách mạng Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng: “Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”, lập nên Nhà nước dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa vừa mới khai sinh, thì ngay lập tức đã phải đối phó với thù trong, giặc ngoài, đặc biệt là dã tâm của thực dân Pháp hòng cướp nước ta một lần nữa. Sau nhiều nỗ lực ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, với mong mỏi tìm kiếm hòa bình nhưng bất thành, Nhân dân Việt Nam không còn con đường nào khác là phải đứng lên chiến đấu để bảo vệ nền độc lập mà vừa mới giành được. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong đó khẳng định rõ tinh thần: "Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ".

Từ lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam đã bước vào cuộc kháng chiến 9 năm gian khổ, ác liệt nhưng không tiếc hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn, bảo vệ đất nước. Để rồi, với thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Việt Nam đã chứng minh: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của Nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hòa bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới". Đồng thời, thắng lợi vĩ đại ấy là kết quả lãnh đạo đúng đắn của Đảng từ nhận định tình hình đến hoạch định chủ trương, đường lối và chỉ đạo thực tiễn.

Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương, đất nước ta tạm thời chia làm hai miền Nam - Bắc, với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc được giải phóng, về cơ bản hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ Nhân dân, tạo điều kiện bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, đế quốc Mỹ dựng lên chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, nhằm ngăn chặn “làn sóng đỏ” và chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở khu vực Đông Nam Á. Và rồi, như một lẽ tất yếu, cả dân tộc Việt Nam lại một lần nữa ra trận, quyết đánh đuổi bọn đế quốc và tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Thắng lợi vĩ đại của Nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cuộc chiến tranh chính nghĩa chống lại cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa của đế quốc Mỹ. Thắng lợi ấy đã chứng tỏ vai trò lãnh đạo quyết định của Đảng trong việc đề ra đường lối cách mạng đúng đắn trong những thời khắc cam go nhất, mang tính bước ngoặt của lịch sử dân tộc. Đường lối đó đã đoàn kết, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thắng lợi này cùng với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã chứng minh tính chính nghĩa, ý chí độc lập, tự chủ, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của Nhân dân Việt Nam. Đồng thời, trở thành nguồn sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn để Đảng tiếp tục lãnh đạo Nhân dân giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.

Cội nguồn sức mạnh của Đảng

Với đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, tổ chức chặt chẽ, thống nhất, nên vừa mới ra đời, Đảng “liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đen tối, soi đường dẫn lối cho Nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong”. Và hơn hết, tất cả những thành tựu to lớn trong suốt 95 năm qua, đã truyền đi một thông điệp đầy mạnh mẽ rằng: Đảng ta vĩ đại bởi ngoài lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác!

Đảng ra đời, phát triển từ trong lòng dân tộc, từ trong Nhân dân, được Nhân dân nuôi dưỡng, che chở và bảo vệ. Do đó, mọi thắng lợi giành được dưới sự lãnh đạo của Đảng đều do phát huy được vai trò, sức mạnh của quần chúng Nhân dân; do sự gắn bó mật thiết, máu thịt giữa Đảng với Nhân dân, Đảng một lòng, một dạ phục vụ Nhân dân. Đồng thời, lịch sử vẻ vang của Đảng kể từ khi thành lập đến nay là lịch sử đấu tranh kiên cường vì lợi ích tối cao của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân. Dưới sự tổ chức, lãnh đạo của Đảng, Nhân dân ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là thay đổi vận mệnh từ một nước thuộc địa, trở thành một nước độc lập, người dân từ thân phận nô lệ thành người tự do, làm chủ đất nước. Đặc biệt, những thành tựu kinh tế - xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng thời gian qua, đặc biệt là qua gần 40 năm đổi mới đất nước, đã minh chứng cho chủ trương, đường lối vì dân, phụng sự Nhân dân của Đảng. Đồng thời, khẳng định chế độ xã hội ưu việt mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Nhân dân ta đã lựa chọn, dày công xây dựng, đã đơm hoa, kết trái.

Chính sự gắn bó máu thịt giữa Đảng và Nhân dân cũng là cội nguồn sức mạnh của Đảng, của dân tộc. Để từ nền tảng bền vững ấy, dân tộc ta càng vững tin để bước vào “cuộc trường chinh mới”: Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước với các mục tiêu, các giá trị mới tốt đẹp, đó là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Bài và ảnh: Lê Phượng

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/dang-ta-that-la-vi-dai-238485.htm