DARPA: Hệ sinh thái công nghệ hàng đầu của Hoa Kỳ

Trong 60 năm qua, DARPA đã tạo ra các công nghệ đột phá phục vụ an ninh Mỹ, trở thành người khởi xướng về công nghệ chiến lược như vũ khí tàng hình, internet, dịch tự động, định vị toàn cầu và vô số phát minh khác.

DARPA - nơi những ý tưởng trở thành sự thực.

DARPA - nơi những ý tưởng trở thành sự thực.

DARPA (Cục quản lý các Dự án Nghiên cứu Quốc phòng Tiên tiến) được thành lập theo lệnh của Tổng thống Dwight D. Eisenhower vào năm 1958, sau khi Liên Xô phóng vệ tinh đầu tiên. Tên cơ quan đã nhiều lần thay đổi giữa DARPA và ARPA, với và không có từ "Defense". DARPA tham gia cả dự án quân sự như công nghệ tàng hình và vũ khí laser, lẫn các dự án hòa bình như xe tự hành và thu thập mảnh vỡ không gian... DARBA được ví von như "nơi biến những ý tưởng điên rồ trở thành hiện thực".

DARPA và mạng internet đầu tiên trên thế giới

Mùa thu năm 1969, các chuyên gia từ Cơ quan Các dự án nghiên cứu quốc phòng tiên tiến (DARPA) thuộc Bộ Quốc phòng Mỹ công bố dự án Arpanet, được coi là "tiền thân" của internet. Lầu Năm Góc đã chuẩn bị hơn một thập kỷ cho dự án này, với mục tiêu tạo ra một mạng lưới thông tin có khả năng chịu đựng các cuộc tấn công hạt nhân và cho phép các máy tính giao tiếp với nhau bằng "ngôn ngữ" chung.

DARPA được cấp 1 triệu USD để phát triển một mạng "sống", kết nối các máy tính vốn không thể chia sẻ thông tin. Các nhà khoa học hàng đầu từ các trường đại học như Stanford, UCLA, Utah, và Santa Barbara đã hợp tác để xây dựng mạng liên khu vực đầu tiên.

Năm 1973, Arpanet đã trở thành mạng kết nối quốc tế, và đến 1977, nó có 100 máy tính được kết nối. Thuật ngữ "Internet" xuất hiện vào khoảng năm 1974 khi mạng còn mang tên Arpanet. Năm 1983, giao thức TCP/IP được áp dụng làm tiêu chuẩn cho tất cả máy tính trên Arpanet, với hơn 4.000 thiết bị được kết nối, mở rộng liên lạc giữa Mỹ và châu Âu qua vệ tinh.

Đến năm 1984, Arpanet được phân chia thành Arpanet cho nghiên cứu và phát triển, và Milnet cho quân sự. Giao thức TCP/IP cho phép kết nối dễ dàng giữa các mạng khác, hình thành nên siêu mạng (SuperNetwork), với Arpanet trở thành nền tảng của Internet.

Giữa thập niên 1980, tổ chức Khoa học Quốc gia Mỹ (NSF) thành lập NSFNET, kết nối các trung tâm máy tính lớn và khiến nhiều doanh nghiệp chuyển từ Arpanet sang NSFNET. Arpanet ngừng hoạt động vào năm 1990 sau gần 20 năm.

Sự phát triển của NSFNET và các mạng khác đã thúc đẩy Internet. Đến năm 1995, NSFNET trở thành mạng nghiên cứu trong khi Internet tiếp tục phát triển. Với khả năng kết nối mở, Internet đã trở thành mạng lớn nhất thế giới, bao trùm nhiều lĩnh vực như thương mại, chính trị, quân sự, nghiên cứu, giáo dục và văn hóa, kích thích sự phát triển mạnh mẽ của dịch vụ trên Internet và khởi đầu kỷ nguyên thương mại điện tử.

DARPA và chi giả có cảm giác

Cánh tay nhân tạo của DARPA có thể nhận thức và hiểu được nhiều mệnh lệnh cùng một lúc. Hình ảnh: DARPA

Cánh tay nhân tạo của DARPA có thể nhận thức và hiểu được nhiều mệnh lệnh cùng một lúc. Hình ảnh: DARPA

Vào năm 2013, DARPA khởi động dự án chế tạo tay chân giả giá rẻ, bao gồm một bàn tay nhân tạo với 3 ngón, có khả năng cảm nhận và truyền thông tin về não. Đến tháng 5/2015, FDA đã công nhận cánh tay này có khả năng nhận biết và hiểu nhiều mệnh lệnh cùng lúc.

Chương trình Cách mạng hóa Chân tay giả của DARPA đã tạo ra bước đột phá mới với bàn tay giả cung cấp cảm giác chạm cho người sử dụng. Nghiên cứu này dựa trên một thí nghiệm trước đó, trong đó một tình nguyện viên bị liệt có thể điều khiển bàn tay giả chỉ bằng suy nghĩ. Sau khi thành công với chuyển động, các nhà nghiên cứu muốn thêm cảm giác chạm, giúp người sử dụng thực hiện các chuyển động chính xác đòi hỏi phản hồi chuyển động và cảm giác.

Trong thí nghiệm gần đây, các nhà nghiên cứu đã đặt mảng điện cực lên cả vỏ não cảm giác và vỏ não vận động của một tình nguyện viên. Vỏ não cảm giác chịu trách nhiệm cảm nhận xúc giác, trong khi vỏ não vận động quản lý chuyển động. Tình nguyện viên này đã sử dụng kết nối trực tiếp đến vỏ não vận động để điều khiển bàn tay giả bằng suy nghĩ trong một thí nghiệm đột phá trước đó của DARPA.

Các phát minh vĩ đại của DARPA trong lĩnh vực khoa học quân sự

Năm 2011, DARPA đã thử nghiệm một loại vũ khí siêu âm thế hệ mới có khả năng bay xuyên Thái Bình Dương và công bố thiết bị đeo dạng màn hình giúp binh lính giao tiếp và phát hiện kẻ thù, cùng một chiếc khiên tự bung khi phát hiện nguy hiểm.

Găng tay mô phỏng chân thạch sùng giúp binh lính có thể leo trèo như người nhện. Hình ảnh: khoahoc.tv

Găng tay mô phỏng chân thạch sùng giúp binh lính có thể leo trèo như người nhện. Hình ảnh: khoahoc.tv

DARPA nổi tiếng với những ý tưởng độc đáo như công nghệ leo tường với găng tay mô phỏng chân thạch sùng và xe đạp lai tàng hình cho nhiệm vụ bí mật. Một dự án ấn tượng là Plan X, phát triển vũ khí ảo cho phép binh lính thực hiện chiến tranh công nghệ cao trong môi trường 3D của Oculus Rift, giúp họ "bắn hạ" tin tặc như trên chiến trường thực.

Những người lính có thể được trang bị "mắt ở sau đầu" bằng hệ thống SCENICC của DARPA. Hình ảnh: digitaltrends.com

Những người lính có thể được trang bị "mắt ở sau đầu" bằng hệ thống SCENICC của DARPA. Hình ảnh: digitaltrends.com

Hệ thống SCENICC (Soldier Centric Imaging via Computational Cameras) là một chiếc mũ bảo hiểm mới có thị kính, hứa hẹn sẽ thay đổi cách nhìn của người lính trên chiến trường. SCENICC là một giải pháp phức tạp cho phép những quân sĩ duy trì tầm nhìn trên chiến trường như một "con mắt thứ ba" ở phía sau đầu.

DARPA, với đội ngũ khoa học hàng đầu, có thể tiêu tốn hàng tỷ đô la mỗi năm từ Lầu Năm Góc để biến điều không thể thành có thể. Tại DARPA, mọi ý tưởng đều có khả năng thành hiện thực. Những công nghệ này hứa hẹn sẽ định hình tương lai, không chỉ của nước Mỹ mà còn của toàn cầu.

Nguồn: Tổng hợp

Minh Phú

Nguồn Công dân & Khuyến học: https://congdankhuyenhoc.vn/darpa-he-sinh-thai-cong-nghe-hang-dau-cua-hoa-ky-179240920145414578.htm