Đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế và chính trị để phát triển bền vững
HNN.VN - Chiều 29/10, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 10, Quốc hội tiến hành thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội.

Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Nguyễn Thị Sửu tham gia thảo luận. Ảnh: Đoàn ĐBQH thành phố cung cấp
Tại phiên họp, các đại biểu tập trung phân tích kết quả đạt được trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, giải ngân đầu tư công, phát triển thị trường, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống Nhân dân. Nhiều ý kiến cũng chỉ ra những hạn chế, thách thức trong điều hành, yêu cầu Chính phủ và các cơ quan hữu quan có giải pháp đột phá hơn để hoàn thành mục tiêu phát triển năm 2026 và giai đoạn tới.
Tham gia thảo luận, Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế Nguyễn Thị Sửu bày tỏ cảm kích trước sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của Đảng, Nhà nước và Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ trong việc hỗ trợ khắc phục thiệt hại do thiên tai Huế thời gian qua. Thành phố đã kịp thời nhận được sự hỗ trợ về vật chất, trong đó có 2 tấn lương khô và 150 tỷ đồng để khôi phục sau mưa lũ.
Chuyển sang nội dung thảo luận, bà Nguyễn Thị Sửu đánh giá cao Báo cáo 949 của Chính phủ đã thể hiện nỗ lực lớn trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 5 năm 2021- 2025, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội và phát triển con người. Theo đó, nhiều chỉ tiêu quan trọng đạt và vượt kế hoạch: Tuổi thọ trung bình đạt 74,8 năm; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 95,15%; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm còn khoảng 1%; và tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70%. Những kết quả này, theo đại biểu, “phản ánh nỗ lực to lớn của cả hệ thống chính trị và Nhân dân”.
Tuy nhiên, nhìn sâu dưới lăng kính phát triển bền vững và cạnh tranh quốc gia trong kỷ nguyên số, bà Sửu chỉ ra vẫn còn những hạn chế mang tính cấu trúc cần tiếp tục được Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm, bổ sung và hoàn thiện trong giai đoạn tới.
Thứ nhất, về văn hóa - con người, đại biểu nhận định, văn hóa vẫn chưa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh của phát triển. Báo cáo của Chính phủ đã thẳng thắn chỉ ra văn hóa chưa là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, chưa trở thành động lực phát triển đất nước. Trong khi đó, trên thế giới, các quốc gia đang bước vào giai đoạn “văn hóa hóa nền kinh tế”, nơi các sản phẩm sáng tạo, bản sắc dân tộc, di sản và công nghiệp giải trí trở thành nguồn tăng trưởng mới.
Từ thực tiễn đó, đại biểu kiến nghị bổ sung chỉ tiêu GDP văn hóa, tỷ lệ đóng góp của công nghiệp sáng tạo vào GDP và quy định mức tối thiểu chi ngân sách cho văn hóa không thấp hơn 2% tổng chi ngân sách nhà nước. Đây là cách thể chế hóa quan điểm “đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế và chính trị” theo tinh thần Nghị quyết 33 của Trung ương.
Thứ hai, về công nghiệp văn hóa, hiện công nghiệp văn hóa Việt Nam chỉ đóng góp khoảng 3% GDP, trong khi cơ chế hỗ trợ sáng tạo, đầu tư hạ tầng, bảo hộ sở hữu trí tuệ và thu hút tư nhân còn rời rạc. Đại biểu đề nghị xây dựng văn bản pháp luật riêng về phát triển văn hóa và công nghiệp sáng tạo, hình thành Quỹ sáng tạo văn hóa, có chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp sáng tạo; đồng thời chuẩn hóa thiết chế văn hóa, hoàn thiện quy định về quyền tác giả số và thương mại hóa tài sản trí tuệ văn hóa Việt Nam trên nền tảng số.
Đại biểu cho biết rất phấn khởi khi trong phần giải trình của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nêu rõ định hướng xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù cho sáng tạo văn hóa và một nghị quyết mang tầm chiến lược về “chấn hưng và phát triển văn hóa Việt Nam” trong giai đoạn tới. “Với Huế, thành phố đi lên từ nền tảng đô thị di sản, chúng tôi kỳ vọng giai đoạn 5 năm tới, Huế sẽ phát triển theo hướng đô thị xanh, thông minh, giàu bản sắc, trở thành trung tâm của công nghiệp văn hóa miền Trung”, bà Sửu nói.
Thứ ba, về bất bình đẳng xã hội và công bằng văn hóa, đại biểu lưu ý, dù tỷ lệ nghèo đa chiều giảm nhanh, song khoảng cách thụ hưởng dịch vụ xã hội giữa các vùng miền, dân tộc, giới tính vẫn còn lớn. Tình trạng bạo lực, xâm hại trẻ em, vấn đề bình đẳng giới, cơ hội tiếp cận văn hóa - giáo dục của đồng bào dân tộc thiểu số vẫn là những thách thức đáng lo ngại.
Đại biểu kiến nghị bổ sung chỉ số công bằng xã hội và công bằng văn hóa theo vùng, dân tộc, giới tính vào hệ thống chỉ tiêu quốc gia; đồng thời đưa vào báo cáo thường niên chỉ tiêu về tỷ lệ nữ giữ chức vụ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp xã. Bà cũng đề nghị gắn chương trình giảm nghèo với chuyển đổi nghề và sinh kế số, thay cho mô hình hỗ trợ ngắn hạn, để người dân tự chủ hơn trong phát triển kinh tế.
Thứ tư, về chính sách an sinh xã hội, đại biểu cho rằng chính sách hiện nay vẫn nặng về trợ cấp hành chính, thiếu dữ liệu thống nhất và chưa hình thành mạng an sinh linh hoạt. Bà Sửu kiến nghị xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về an sinh xã hội, kết nối giữa bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội và hộ nghèo; áp dụng mã định danh duy nhất cho công dân trong quản lý an sinh; thử nghiệm mô hình bảo hiểm rủi ro cộng đồng vi mô tại các vùng thường xuyên chịu thiên tai, giảm phụ thuộc vào trợ cấp ngân sách. Đồng thời, cần ban hành Nghị định về bảo trợ xã hội thông minh, bảo đảm tích hợp dữ liệu, phản ứng nhanh, minh bạch và có sự giám sát của cộng đồng.
Thứ năm, về giáo dục, y tế và thị trường lao động, bà Nguyễn Thị Sửu cho rằng quá trình chuyển đổi số trong hai lĩnh vực này còn chậm, chưa gắn kết với yêu cầu của nền kinh tế số. Đại biểu kiến nghị bổ sung chỉ tiêu bắt buộc về tỷ lệ trường học có hệ thống quản lý học tập điện tử (LMS), thúc đẩy liên thông dữ liệu giữa giáo dục - y tế - lao động để phục vụ quy hoạch nhân lực chất lượng cao.
Phó Trưởng đoàn ĐBQH TP. Huế nhấn mạnh: “Sức mạnh dân tộc Việt Nam không chỉ nằm ở tài nguyên thiên nhiên hay công nghệ, mà trước hết và trên hết là con người và bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, khi an sinh chuyển từ bảo đảm sang phát triển, đó sẽ là nền tảng vững chắc cho một Việt Nam hùng cường, bền vững trong kỷ nguyên mới”.














