Đầu tư xanh: chìa khóa phát triển bền vững
Theo một Báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), việc bảo vệ các hệ sinh thái có thể mang lại lợi ích to lớn về việc làm, năng suất lao động và khả năng bền vững về tài chính. Báo cáo nhấn mạnh rằng đầu tư vào thiên nhiên là yếu tố sống còn, do 75% sản lượng của khu vực đến từ các ngành nghề phụ thuộc vào thiên nhiên ở mức độ trung bình đến cao, trong khi thiên nhiên đang bị suy thoái với tốc độ đáng báo động.

Các sinh viên trải nghiệm sử dụng máy thu gom vỏ chai nhựa trong chương trình “Chai nhựa tái sinh, hành trình tiếp nối” tại Trường Đại học Thương mại (Hà Nội). Ảnh Khánh Huy
Một phần cốt lõi trong mô hình vận hành kinh tế quốc gia
Báo cáo Khí hậu châu Á - Thái Bình Dương 2025 cho thấy, khai mở tiềm năng thiên nhiên cho phát triển kêu gọi các Chính phủ đưa việc bảo vệ thiên nhiên trở thành một phần cốt lõi trong mô hình vận hành kinh tế quốc gia. Báo cáo hối thúc các nước nâng cấp “hệ điều hành” - bao gồm các nền tảng quản trị, chính sách và dữ liệu định hướng đầu tư – nhằm tạo môi trường thuận lợi cho dòng vốn tư nhân chảy vào lĩnh vực bảo tồn, nâng cao khả năng thích ứng và đổi mới sáng tạo.
Ông Albert Park - Chuyên gia Kinh tế trưởng của ADB nhận định: “Các hệ sinh thái lành mạnh không phải là yếu tố môi trường phụ trợ trong câu chuyện tăng trưởng của khu vực. Chúng là tài sản sản xuất cốt lõi cho tăng trưởng và năng lực thích ứng của châu Á. Các quốc gia đầu tư vào thiên nhiên là đang đầu tư vào năng lực cạnh tranh và sự ổn định tài khóa của chính họ”.
Thiên nhiên vẫn đang bị đánh giá thấp và không được đầu tư đúng mức. Trong hơn 270 nghìn tỷ USD tài sản tài chính toàn cầu, chỉ khoảng 200 tỷ USD mỗi năm, dưới 1% được dùng để hỗ trợ các khoản đầu tư tích cực với thiên nhiên. Chúng bao gồm các hoạt động canh tác bền vững, như đa dạng cây trồng để giúp cải tạo đất và đa dạng sinh học, hay sử dụng đất ngập nước và rừng ngập mặn để không chỉ phòng chống lũ lụt mà còn giúp cải thiện chất lượng nước, lưu trữ carbon và hỗ trợ sinh kế nghề cá. Để thu hẹp khoảng cách tài trợ cho khí hậu và đa dạng sinh học tại Châu Á - Thái Bình Dương, sẽ cần hơn một nghìn tỷ USD mỗi năm.
Báo cáo cho rằng nguồn tài chính công nên được ưu tiên cho việc xây dựng các hệ thống có khả năng thu hút đầu tư tư nhân. Thông qua việc định hướng nguồn lực công vào cải cách quản trị, chính sách và dữ liệu, các Chính phủ có thể kích hoạt dòng vốn tư nhân quy mô lớn cho tăng trưởng có tác động tích cực tới thiên nhiên.
Báo cáo trình bày lộ trình 10 năm nhằm giúp các nền kinh tế lồng ghép yếu tố thiên nhiên vào các hệ thống kinh tế và tài chính, với sự thừa nhận rằng mỗi nền kinh tế có xuất phát điểm khác nhau. Các hành động ngắn hạn được khuyến nghị bao gồm cải cách trợ cấp, hạch toán vốn tự nhiên, và quy hoạch ở quy mô không gian phù hợp, thậm chí vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Các cải cách dài hạn tập trung vào việc điều chỉnh nền tảng quản trị, dữ liệu và tài chính nhằm mang lại lợi ích kép về môi trường và kinh tế.
Chuyển đổi sang năng lượng xanh là tất yếu
Ngài Nicolai Prytz - Đại sứ Đan Mạch tại Việt Nam đã chia sẻ: “Chuyển đổi sang năng lượng xanh và sản xuất bền vững không chỉ là điều tất yếu, mà còn là lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu”.
PGS.TS Đặng Trần Thọ - Viện trưởng Viện Công nghệ năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội cho biết, trong hơn ba thập kỷ qua, ngành năng lượng Việt Nam đã đóng vai trò trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, cơ cấu năng lượng sơ cấp của Việt Nam vẫn thiên lệch: than chiếm khoảng 49,7%, dầu mỏ và các sản phẩm dầu chiếm 24,7%, khí tự nhiên 6,4%, thủy điện 6,8%, năng lượng tái tạo khoảng 3,3%. PGS.TS Đặng Trần Thọ trích dẫn số liệu của Vietnam Energy Outlook 2024 cho thấy, để đạt được mục tiêu Net Zero 2050, Việt Nam cần đầu tư thêm 8-10 tỷ USD/năm cho năng lượng tái tạo, hạ tầng và công nghệ lưu trữ - một con số thể hiện thách thức tài chính rất lớn.
Theo Nghị quyết 70, mục tiêu của Việt Nam đến năm 2030 sẽ tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo lên khoảng 30% tổng cung năng lượng vào 2030, hướng tới 40-50% vào 2045; giảm phát thải khí nhà kính 10% vào 2030 và 20% vào 2045, tiến tới trung hòa carbon vào 2050. PGS.TS Đặng Trần Thọ cho biết, để đạt được các mục tiêu chiến lược về an ninh năng lượng, giảm phát thải, và tăng trưởng xanh, cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, có tính liên ngành, gắn kết giữa Nhà nước - DN - viện, trường - xã hội. Tại đây cần tăng vai trò của khu vực tư nhân và FDI, khuyến khích đầu tư hỗn hợp (blended finance), trong đó các tập đoàn tư nhân đóng vai trò đồng đầu tư cùng Nhà nước trong các dự án hạ tầng năng lượng.
Theo Báo cáo “Nền kinh tế xanh Đông Nam Á” do Bain & Company, GenZero, Google, Standard Chartered và Temasek thực hiện cho thấy, đầu tư xanh của tư nhân trong nhóm SEA-6 (gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) đạt 8 tỷ USD năm 2024, tăng 43% so với 2023. Singapore và Malaysia dẫn đầu về thu hút vốn tư nhân cho đầu tư xanh, lần lượt đạt 2,68 và 2,3 tỷ USD, tăng đến 194% và 124% so với cùng kỳ 2023. Việt Nam cùng với Indonesia, Philippines, Thái Lan chứng kiến dòng vốn suy giảm ở mức hai con số.
Tại Việt Nam, đầu tư xanh từ khu vực tư nhân năm qua chỉ chiếm khoảng 2% tổng giá trị. Dòng vốn xanh chuyển dịch từ năng lượng mặt trời năm 2023 sang giao thông vận tải và điện gió, với tổng cộng 4 thương vụ được ghi nhận. Tuy nhiên, so với 2023, quy mô đầu tư đã giảm 19%.
Các chuyên gia cho rằng Đông Nam Á cần đẩy nhanh phát triển nông nghiệp bền vững, lưới điện thế hệ mới và hệ sinh thái xe điện (EV). Nông nghiệp tạo ra 25-30% việc làm nhờ các ngành dầu cọ, cao su, gạo nhưng cũng góp phần gây ra 30% lượng phát thải và mất rừng, do những rào cản như sản xuất manh mún, hạ tầng yếu, pháp lý phức tạp và thị trường carbon sơ khai. Giải pháp bền vững cho ngành này là nâng cao giá trị sản phẩm, thúc đẩy nhiên liệu sinh học, cải cách quyền sử dụng đất và chuỗi cung ứng.
Về năng lượng, Báo cáo khuyến nghị các nước ASEAN mở rộng, hiện đại hóa lưới điện nội địa và tăng kết nối xuyên biên giới. Giao thông đường bộ là nguồn phát thải lớn, nhưng tỷ lệ xe điện tại Đông Nam Á còn thấp. Do đó, khu vực cần chiến lược kép gồm tăng nhu cầu và mở rộng sản xuất xe điện nội địa để duy trì lợi thế sản xuất và giảm phát thải. Đồng thời, các nước cũng cần hợp tác khu vực phát triển chuỗi cung ứng pin, xe điện, hạ tầng sạc, tận dụng tài nguyên sẵn có. Ngoài ra, nếu hợp tác sâu rộng hơn trong toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương nhóm SEA-6 có thể thu về tới 120 tỷ USD trong tăng trưởng kinh tế, tạo ra 900.000 việc làm mới và thu hẹp 50% khoảng cách phát thải vào năm 2030.














