ĐBQH: Chúng ta vẫn chưa thực sự đầu tư tương xứng cho môi trường

'Nếu chúng ta không đầu tư mạnh mẽ hơn ngay từ bây giờ, chi phí khắc phục hậu quả môi trường trong tương lai sẽ gấp hàng chục lần chi phí phòng ngừa hiện nay', ĐB Nguyễn Thị Việt Nga phát biểu.

Chiều 28-10, các đại biểu Quốc hội (ĐB) tiếp tục thảo luận báo cáo của Đoàn giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách, pháp luật bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 có hiệu lực thi hành.

Xây dựng bản đồ rủi ro môi trường cấp quốc gia

ĐB Trần Kim Yến (TPHCM) cho rằng, mặc dù có khoảng 8.000 dự án đã được phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) trong giai đoạn 2020 - 2024, tuy nhiên, vẫn có một khoảng cách đáng kể giữa các báo cáo trên giấy và hiệu quả thực tế, đặc biệt đối với các dự án hạ tầng lớn gây tác động tiêu cực trên phạm vi liên vùng.

ĐB cho rằng, qua nhiều tài liệu cho thấy ở đồng bằng sông Hồng, các dự án giao thông và đô thị hóa nhanh đã làm giảm không gian thoát nước tự nhiên, gia tăng ngập úng và sụt lún do khai thác nước ngầm; khai thác cát sông Hồng cũng gây xói lở bờ sông.

Nhiều dự án giao thông thủy điện và khu công nghiệp có san gạt đồi núi trọc, dòng suối làm tăng nguy cơ sạt lở, ngập lụt hạ lưu... Ở các tuyến đường cao tốc, nhiều công trình đã phải đối mặt với thách thức lớn về địa chất thủy văn và môi trường, thực tiễn cho thấy một số dự án đã phải áp dụng các giải pháp khắc phục…

 Đại biểu Trần Kim Yến (TPHCM). Ảnh: QUANG PHÚC

Đại biểu Trần Kim Yến (TPHCM). Ảnh: QUANG PHÚC

Từ phân tích đó, ĐB Trần Kim Yến đề nghị nâng cao chất lượng công tác thẩm định và hậu kiểm của ĐTM, yêu cầu bắt buộc đánh giá liên vùng, liên khu vực đối với các dự án hạ tầng có quy mô lớn. Theo ĐB Trần Kim Yến, nâng cao chất lượng ĐTM không chỉ là yêu cầu về quản lý môi trường, mà còn là yếu tố cốt lõi bảo đảm phát triển bền vững an toàn và thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, đối với các dự án hạ tầng giao thông quốc gia, cần coi ĐTM là công cụ dự báo chiến lược chứ không chỉ là một thủ tục hành chính.

Bà cũng đề nghị đẩy mạnh nghiên cứu và xây dựng bản đồ rủi ro môi trường cấp quốc gia để tích hợp vào quy hoạch phát triển hạ tầng; song song đó, hậu kiểm ĐTM; chuyển tư duy sang đánh giá rủi ro và thích ứng môi trường.

Vấn đề thứ hai mà ĐB Trần Kim Yến đề cập là khung pháp lý chưa đồng bộ cho các dự án đốt rác phát điện, dẫn đến sự quản lý chồng chéo và thiếu cơ chế thống nhất, từ đó, ĐB kiến nghị Chính phủ sớm ban hành quy định chuyên ngành về đầu tư cấp phép và quản lý vận hành nhà máy đốt rác phát điện.

 Các đại biểu dự phiên họp chiều 28-10. Ảnh: QUANG PHÚC

Các đại biểu dự phiên họp chiều 28-10. Ảnh: QUANG PHÚC

Chi ngân sách cho BVMT đang quá thấp

ĐB Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng) cho biết, hiện nay, cả nước đã có Quỹ BVMT Việt Nam ở Trung ương và nhiều Quỹ BVMT cấp tỉnh, được thành lập theo Luật BVMT năm 2020, tuy nhiên, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Do đó, ĐB kiến nghị Chính phủ sớm ban hành nghị định mới về vấn đề này, theo hướng thống nhất cơ chế vận hành các quỹ cấp tỉnh, cho phép quỹ được tiếp nhận tài trợ, phát hành trái phiếu xanh và hợp tác với khu vực tư nhân trong đầu tư hạ tầng môi trường; mở rộng thẩm quyền cho quỹ được cho vay ưu đãi, bảo lãnh tín dụng hoặc đầu tư đồng tài trợ với các dự án BVMT có khả năng hoàn vốn.

Mặt khác, theo ĐB Nguyễn Thị Việt Nga, Bộ Tài chính báo cáo tỷ lệ chi ngân sách Trung ương cho sự nghiệp BVMT trong 3 năm qua chỉ đạt chưa đến 1/10 của 1% tổng chi ngân sách quốc gia. Con số đó cho thấy mức chi hiện nay còn quá thấp so với yêu cầu thực tiễn, nhất là khi chúng ta đang đối mặt với ô nhiễm rác thải sinh hoạt, công nghiệp, làng nghề và biến đổi khí hậu.

 ĐB Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng). Ảnh: QUANG PHÚC

ĐB Nguyễn Thị Việt Nga (Hải Phòng). Ảnh: QUANG PHÚC

ĐB Nguyễn Thị Việt Nga đề nghị nâng tỷ trọng chi ngân sách cho BVMT lên tối thiểu tăng 30% so với hiện tại. Bởi vì BVMT không phải là “cái giá phải trả cho phát triển”, mà là điều kiện tiên quyết của phát triển bền vững và chất lượng sống của nhân dân. Nếu chúng ta hoàn thiện thể chế, mở rộng hợp tác công - tư, và đầu tư ngân sách tương xứng, thì môi trường sẽ trở thành nền tảng và động lực cho tăng trưởng xanh, chứ không phải rào cản.

Con số chi ngân sách chưa đến 1/10 của 1% tổng chi quốc gia cho thấy một thực tế đáng lo ngại: chúng ta vẫn chưa thực sự đầu tư tương xứng cho môi trường, lĩnh vực gắn trực tiếp với sức khỏe, sinh kế và tương lai của toàn dân tộc. Trong khi đó, biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí và khan hiếm nước sạch đang trở thành thách thức toàn cầu, và Việt Nam không còn là ngoại lệ mà các báo cáo của cuộc giám sát đã chỉ rất rõ. “Nếu chúng ta không đầu tư mạnh mẽ hơn ngay từ bây giờ, chi phí khắc phục hậu quả môi trường trong tương lai sẽ gấp hàng chục lần chi phí phòng ngừa hiện nay”, ĐB Nguyễn Thị Việt Nga phát biểu.

 Đại biểu Dương Khắc Mai (Lâm Đồng). Ảnh: QUANG PHÚC

Đại biểu Dương Khắc Mai (Lâm Đồng). Ảnh: QUANG PHÚC

Các ý kiến cũng chỉ rõ về tình trạng ô nhiễm ở đô thị hiện nay, nhất là vấn đề nước thải. Theo báo cáo giám sát, tỷ lệ thu gom rác đô thị đạt 97%, nhưng chỉ 18% nước thải được xử lý, cho thấy phần lớn nước thải ở đô thị đang được xả thẳng ra môi trường.

Theo ĐB Dương Khắc Mai (Lâm Đồng), quản lý chất lượng nguồn nước mặt cũng có vấn đề khi mà hầu hết sông đều đã bị ô nhiễm, đe dọa an ninh nguồn nước. Ông cho rằng, cần coi nước là tài nguyên quốc gia để có giải pháp bảo vệ chất lượng nguồn nước mặt.

Dẫn tình trạng lũ lụt nặng nề vừa qua, trong đó có lũ lụt ở các tỉnh miền Trung hiện nay, ĐB Dương Khắc Mai cho rằng, cần cấp bách giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu, sớm xây dựng luật về biến đổi khí hậu.

PHAN THẢO

Nguồn SGGP: https://sggp.org.vn/dbqh-chung-ta-van-chua-thuc-su-dau-tu-tuong-xung-cho-moi-truong-post820402.html