ĐBQH Nguyễn Thị Lan có góp ý về một số dự án luật
ĐBQH Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung và làm rõ thêm các loại tình trạng khẩn cấp, không chỉ giới hạn trong phạm vi thiên tai, dịch bệnh, an ninh quốc gia.
Sáng nay (23/6), Tổ thảo luận số 9 gồm các Đoàn đại biểu Quốc hội: Quảng Ninh, Tây Ninh, Bến Tre và Hòa Bình đã thảo luận về hai dự án luật: Luật Tương trợ tư pháp về dân sự và Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, dưới sự chủ trì của Đồng chí Phạm Hùng Thái – Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tây Ninh.
Phát biểu tại thảo luận Tổ 1 về dự thảo Luật Tương trợ tư pháp, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lan (Hà Nội) đánh giá dự thảo sẽ khắc phục những bất cập của luật hiện hành, đáp ứng yêu cầu hội nhập và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức trong và ngoài nước.
Đồng thời, nhấn mạnh yêu cầu bảo mật thông tin và quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan liên quan.
Theo đánh giá của bà Nguyễn Thị Lan, trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh, sự cố môi trường và những thách thức an ninh ngày càng phức tạp, hệ thống pháp luật hiện hành vẫn còn tản mạn và chủ yếu dựa trên Pháp lệnh về tình trạng khẩn cấp năm 2000 đã không còn phù hợp. Việc ban hành Luật Tình trạng khẩn cấp sẽ giúp thiết lập khuôn khổ pháp lý thống nhất, minh bạch và hiệu quả, bảo đảm tính kịp thời và thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, nâng cao khả năng huy động nguồn lực và xử lý hậu quả, đồng thời bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Đây cũng là bước tiến quan trọng để hoàn thiện thể chế pháp luật của Nhà nước pháp quyền, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước trong giai đoạn mới, phù hợp với Hiến pháp 2013.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lan phát biểu tại thảo luận Tổ 1 về dự thảo Luật Tương trợ tư pháp
Góp ý cụ thể vào một số điều, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lan đề nghị bổ sung và làm rõ thêm các loại tình trạng khẩn cấp, không chỉ giới hạn trong phạm vi thiên tai, dịch bệnh, an ninh quốc gia mà cần bổ sung trường hợp "tình trạng khẩn cấp do sự cố công nghiệp nghiêm trọng, biến đổi khí hậu" để bảo đảm bao quát thực tế đa dạng.
Theo bà, nên cụ thể hóa thuật ngữ "phòng thủ dân sự cấp độ 3" tại Điều 2, vì đây là thuật ngữ kỹ thuật, cần tham chiếu cụ thể quy định của pháp luật liên quan.
Đối với Điều 3 - Nguyên tắc hoạt động trong tình trạng khẩn cấp, dự thảo đã quy định rõ ràng các nguyên tắc cốt lõi, bám sát Hiến pháp 2013 và pháp luật quốc tế. Nhấn mạnh trách nhiệm và vai trò lãnh đạo thống nhất của Đảng, Nhà nước, nhưng vẫn đề cao tính kịp thời và huy động toàn dân. Có nguyên tắc hạn chế quyền con người trong tình trạng khẩn cấp theo hướng cần thiết và không phân biệt đối xử.
Mặt khác, dự thảo cũng quy định rõ rõ ràng việc miễn trừ trách nhiệm để khuyến khích quyết định kịp thời của người thực thi công vụ. Tuy nhiên để hoàn thiện dự thảo luật, đại biểu Nguyễn Thị Lan đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung và làm rõ thêm một số điểm.
Thứ nhất, cần quy định rõ hơn về nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân không chỉ “thật sự cần thiết” mà còn phải “tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của tình trạng khẩn cấp” để bảo đảm đúng tinh thần Hiến pháp 2013 và các điều ước quốc tế.
Thứ hai, cần bổ sung nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch thông tin và tăng cường vai trò giám sát của Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức nhân quyền trong quá trình áp dụng biện pháp khẩn cấp.
Thứ ba, cần quy định chặt chẽ hơn các điều kiện miễn trừ trách nhiệm để tránh lạm quyền, bảo đảm quyết định của người thực thi công vụ phải dựa trên căn cứ khách quan, không vì mục đích vụ lợi cá nhân.
"Những bổ sung này sẽ giúp Điều 3 hoàn thiện hơn, vừa bảo đảm kịp thời, hiệu quả ứng phó tình trạng khẩn cấp, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân", đại biểu Lan cho hay.
Đối với Điều 13, 16 - Biện pháp áp dụng trong tình trạng khẩn cấp, bà cho rằng bốn điều này quy định cụ thể các biện pháp ứng phó tùy từng loại tình trạng khẩn cấp.
Cụ thể, Điều 13 về thảm họa lớn (thiên tai, ô nhiễm, sự cố bức xạ, hạt nhân). Điều 14 về dịch bệnh. Điều 15 về an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Điều 16 về quốc phòng.
Theo đó, các điều đều liệt kê danh mục biện pháp được áp dụng trong phạm vi tình trạng khẩn cấp và cho phép Thủ tướng Chính phủ áp dụng biện pháp ngoài danh mục (pháp luật chưa quy định), sau đó báo cáo cấp có thẩm quyền. Các quy định như trong dự thảo có tính linh hoạt cao, không “cứng nhắc,” cho phép Thủ tướng quyết định biện pháp bổ sung khi thực tế phát sinh. Hài hòa giữa quy định chuyên ngành (phòng thủ dân sự, phòng chống dịch bệnh, an ninh, quốc phòng…) và tình huống khẩn cấp.
Tuy nhiên để hoàn thiện thêm dự thảo, đại biểu Lan đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét cụ thể hóa tiêu chí áp dụng từng biện pháp, để tránh áp dụng tùy tiện. Ví dụ “cưỡng chế di dời người dân” chỉ áp dụng khi có đánh giá rủi ro thể hiện nguy hiểm tức thời và không còn phương án khác ít xâm hại hơn.
Thứ hai, các biện pháp đặc biệt thường hạn chế quyền con người, vì vậy cần quy định rõ thời hạn tối đa và phải được xem xét lại sau mỗi kỳ hạn. Quy định rõ thời hạn áp dụng từng biện pháp, kèm thủ tục gia hạn và nghĩa vụ báo cáo công khai.
Thứ ba, đảm bảo tính tương xứng, không phân biệt đối xử, yêu cầu các biện pháp phải “phù hợp với tính chất và mức độ nghiêm trọng của tình trạng khẩn cấp, không phân biệt đối xử và không vượt quá mức cần thiết”. Nên bổ sung quy định trách nhiệm giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc hoặc tổ chức xã hội, kèm cơ chế xử lý vi phạm của người ra quyết định hoặc thi hành biện pháp quá mức để tránh việc lạm quyền hoặc xử lý sai quy định.
Cuối cùng, việc áp dụng biện pháp đặc biệt cần minh bạch để tránh gây hoang mang và hiểu nhầm trong nhân dân. Nên bổ sung quy định bắt buộc công khai các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp (trừ thông tin mật) trên phương tiện thông tin đại chúng và cổng thông tin điện tử Chính phủ.

Đại biểu Nguyễn Thị Lan đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung và làm rõ thêm một số điểm
Đối với vấn đề cứu trợ, khắc phục hậu quả và nguồn lực, Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Lan cho biết dự thảo đã đề cập đủ các nhóm vấn đề trọng yếu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu cơ chế giám sát độc lập và minh bạch quá trình cứu trợ, xử lý hậu quả.
Ở Điều 19 hiện nay quy định tập trung chủ yếu vào vai trò của Chính phủ, các bộ ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Chữ thập đỏ, nhưng chưa nêu rõ cơ chế giám sát độc lập. Do đó, cần bổ sung quy định cụ thể về vai trò giám sát của các tổ chức xã hội, cơ quan kiểm toán độc lập, và công khai thông tin về danh sách nhà tài trợ, người nhận cứu trợ để bảo đảm minh bạch, tránh thất thoát và tham nhũng.
Điều 18,19 quy định trong dự thảo hiện chỉ nêu nguyên tắc chung về thống kê, đánh giá thiệt hại, chưa hướng dẫn cách xử lý tranh chấp và bồi thường thiệt hại tài sản. Vậy nên cần quy định rõ ràng tiêu chí, phương pháp thống kê thiệt hại và thời hạn xử lý bồi thường; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của người bị thiệt hại, kèm cơ chế khiếu nại, giải quyết tranh chấp để tăng cường tính minh bạch, khách quan.
"Dự thảo cần quy định rõ Chính phủ, Ủy ban Nhân dân các cấp có trách nhiệm báo cáo công khai tình hình phân bổ, sử dụng nguồn lực cứu trợ trên cổng thông tin điện tử và phương tiện thông tin đại chúng, kèm trách nhiệm giải trình của người có thẩm quyền", đại biểu Nguyễn Thị Lan cho hay.