Đề đánh giá chất lượng Ngữ văn: Ý nghĩa của việc tự mình vươn lên trong cuộc sống

Câu nghị luận xã hội đề đánh giá chất lượng môn Ngữ văn của Trường Trung học phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Thanh Hóa yêu cầu học sinh bàn về ý nghĩa của việc tự mình vươn lên trong cuộc sống.

Gợi ý đáp án

I. ĐỌC HIỂU

Câu 1. Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm.

Câu 2. Những điều "không tự đến" mà người cha (mẹ) đã nói với con: quả ngọt, hoa thơm, mùa bội thu.

Câu 3. Biện pháp tu từ được sử dụng trong những câu thơ: so sánh. Tác dụng: Làm cho người đọc hiểu rõ hơn sự cần thiết của lối sống tự lập, chăm chỉ và nghị lực vượt qua khó khăn để làm chủ cuộc sống; Làm cho ý thơ thêm sinh động, hấp dẫn, gợi hình gợi cảm hơn.

Câu 4. Đồng tình có thể lý giải: Nuông chiều đồng nghĩa với việc làm cho con ỷ lại, không rèn rũa được những kiến thức, kỹ năng, bản lĩnh để đối diện với xã hội; nương chiều dễ làm con người không biết quý trọng những giá trị, không biết phân biệt đúng sai, dễ sa ngã, lầm đường lạc lối.

Mỗi con người ai cũng phải thoát ra khỏi sự bao bọc để trưởng thành, để tự lập. Vì vậy thương con đồng nghĩa với việc hình thành, định hướng, tôi rèn cho con những phẩm chất, năng lực để sống tốt hơn giữa cuộc đời.

II. LÀM VĂN

Câu 1. Ý nghĩa của việc tự mình vươn lên trong cuộc sống.

Chủ động với cuộc sống của chính mình mà không phải dựa dẫm, trông chờ, ỉ lại. Rèn cho bản thân tính tự lập, ý chí nghị lực, bản lĩnh

Người có ý thức tự vươn lên có kế hoạch làm việc, tự đặt ra những nguyên tắc cho bản thân mình và cố gắng thực hiện nó. Họ dám đương đầu với mọi thử thách, luôn bền gan vững chí trước mọi sóng lớn gió to. Họ sống mạnh mẽ, cứng cỏi, kiên cường; thất bại không nản, thành công không tự mãn.

Người tự vươn lên trong cuộc sống có thể khắc phục hạn chế của bản thân, tìm ra đường đi từ ngõ cụt, biết xuyên thủng màn đêm của khó khăn để bước ra ánh sáng.

Người biết tự vươn lên sẽ luôn biết tìm tòi và khám phá ra những yếu tố và tiềm lực mà mình có để vận dụng vào công việc mình đang làm.

Người biết tự vươn lên cũng là người không từ bỏ một cơ hội nào để đưa ra những giải pháp tốt nhất cho công việc mình đang làm, không ngừng thử thách bản thân và tìm đủ mọi cách để đạt được thành công.

Người tự vươn lên trong cuộc sống luôn được mọi người yêu quý và trân trọng và họ luôn trở thành niềm tin, điểm tựa, thậm chí là thần tượng để mọi người noi theo. Từ đó lan tỏa nguồn năng lượng tích cực đến mọi người xung quanh, góp phần vào sự phát triển của xã hội.

Câu 2. Cảm nhận về hình tượng sông Đà trong đoạn trích trên. Từ đó nhận xét về cái tôi trữ tình của Nguyễn Tuân.

* Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Tuân, tùy bút "Người lái đò Sông Đà" và đoạn trích, nêu vấn đề cần nghị luận.

* Cảm nhận: Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của hình tượng sông Đà:

- Trữ tình qua dáng vẻ:

+ Sông Đà được cảm nhận ở phương diện không gian, từ điểm nhìn trên cao: "Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ấn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và mù khói núi Mèo đốt nương xuân".

+ Tác giả dùng câu văn dài, mềm mại; sử dụng rất nhiều vần bằng; điệp cụm từ "tuôn dài tuôn dài"; biện pháp so sánh độc đáo tài hoa... tạo nên ấn tượng về một dòng chảy nhẹ nhàng,êm đềm của dòng sông Đà ở hạ nguồn.

- Trữ tình qua sắc nước:

+ Nhà văn không đưa ra nhận xét một cách hồ đồ, mà ông "đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà; đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống". Đó là một quá trình khám phá sông Đà thật kỹ, ở nhiều thời điểm khác nhau để phát hiện vẻ đẹp đa sắc, đổi màu theo mùa của con sông.

+ Mùa xuân, nước sông Đà "xanh ngọc bích" chứ không"xanh màu xanh canh hến như màu của sông Gâm, sông Lô.

+ Mùa thu, nước sông Đà "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa".

+ Tự hào vẻ đẹp của con sông dân tộc, tác giả phủ định quan điểm sai lệch của thực dân Pháp, trả lại vẻ đẹp trong sáng cho sông Đà: "Chưa bao giờ, sông Đà có màu đen như "thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ra đổ mực Tây vào rồi gọi bằng một cái tên láo lếu".

- Trữ tình qua cảnh sắc sinh động, gợi cảm:

+ Vẻ đẹp gợi cảm của cảnh sắc sông Đà làm cho người đi đường gần thì thấy yêu thương, xa thì thấy nhớ nhung lưu luyến. Vì vậy tác giả ví sông Đà như một "cố nhân", một tri kỷ khi xa thì nhớ, khi gặp lại thì vui sướng vỡ òa.

+ Vẻ đẹp bừng sáng trong ngày nắng của sông Đà được tác giả so sánh như ánh sáng loang loáng từ miếng kính trẻ con chiếu vào mắt mình rồi bỏ chạy.

+ Câu văn "Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà" giàu nhịp điệu với biệp pháp liệt kê đã làm nổi bật vẻ đẹp chan hòa, sống động của dòng sông.

+ Trước vẻ đẹp gợi cảm của sông Đà, tác giả thể hiện niềm vui sướng, hạnh phúc khi gặp lại "cố nhân" sông Đà: "Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nổi lại chiêm bao đứt quãng".

- Nghệ thuật: Hình ảnh ngôn từ mới lạ, câu văn trùng điệp mà vẫn nhịp nhàng về âm thanh nhịp điệu. Cách so sánh, nhân hóa táo bạo mà kì thú, lối tạo hình giàu tính mĩ thuật, phối hợp nhiều góc nhìn theo kiểu điện ảnh.

*Nhận xét cái tôi trữ tình thể hiện trong đoạn trích

- Cái tôi trữ tình, say mê cái đẹp thiên nhiên; ngợi ca, tự hào trước vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của Tây Bắc; cái tôi yêu nước, hòa nhập với cuộc sống mới, con người mới.

- Cái tôi uyên bác, tài hoa với thể tùy bút phóng túng.

Ly Hương

Nguồn Công dân & Khuyến học: https://congdankhuyenhoc.vn/de-danh-gia-chat-luong-ngu-van-y-nghia-cua-viec-tu-minh-vuon-len-trong-cuoc-song-179240625141615239.htm