Để Luật Quản lý thuế thực sự khả thi, phù hợp thực tiễn và hội nhập quốc tế
Để Luật Quản lý thuế thực sự khả thi, phù hợp thực tiễn và hội nhập quốc tế là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm trong phiên thảo luận tổ tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XV.

Quang cảnh phiên thảo luận tổ. Ảnh: Đoàn ĐBQH tỉnh
Chiều 5-11, các thành viên đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai thảo luận ở tổ về các dự án: Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), Luật Tiết kiệm, chống lãng phí.
Nâng cao tính minh bạch trong quản lý thuế
Tham gia thảo luận về dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi), đại biểu (ĐB) Lê Hoàng Anh cho rằng dự thảo đã có nhiều điểm tiến bộ, đặc biệt là hướng tới số hóa quy trình quản lý, nâng cao tính minh bạch, áp dụng quản lý rủi ro và tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế.

ĐB Lê Hoàng Anh cho rằng dự thảo đã hướng tới số hóa quy trình quản lý, nâng cao tính minh bạch, áp dụng quản lý rủi ro và tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế. Ảnh: Đoàn ĐBQH tỉnh
Tuy nhiên, khi xem xét sâu hơn, ĐB Hoàng Anh cho rằng còn một số vấn đề cốt lõi cần tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện để Luật thực sự khả thi, phù hợp thực tiễn và hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, dự thảo Luật đã mở rộng phạm vi điều chỉnh quá lớn, bao gồm cả “các khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước” (Điều 1), trong khi nhiều khoản này như tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, phí - lệ phí, tiền sử dụng đất... đã được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành. Cách thiết kế này vừa gây chồng chéo, vừa có thể xung đột thẩm quyền giữa các cơ quan quản lý thu, đi ngược tinh thần “một nghĩa vụ - một cơ quan chịu trách nhiệm” mà nhiều nước OECD đang áp dụng.
Thứ hai, dự thảo có xu hướng quản lý chi tiết quá sâu về nghiệp vụ hành chính, trong khi chưa chuyển hẳn sang quản lý điện tử và hậu kiểm thông minh. Các quy định về hồ sơ, trình tự, thời hạn vẫn giữ nặng thủ tục tiền kiểm, khiến cải cách hành chính chưa thực chất, trong khi chủ trương của Đảng là chuyển mạnh sau hậu kiểm.
Thứ ba, về công nghệ và dữ liệu, dự thảo tuy đã đưa ra khái niệm “hệ thống thông tin quản lý thuế” nhưng chưa xác định rõ kiến trúc dữ liệu, tiêu chuẩn kết nối, cơ chế bảo mật và trách nhiệm chia sẻ thông tin. Điều này tiềm ẩn rủi ro xung đột với Luật Giao dịch điện tử và Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân.
Thứ tư, đối với khu vực kinh tế số và thương mại điện tử - một trong những lĩnh vực tăng trưởng nhanh nhất nhưng thất thu còn lớn - các quy định hiện tại còn bỏ trống cơ chế quản lý thực tế, dẫn đến nguy cơ tiếp tục thất thu rất lớn.
Từ phân tích trên, ĐB Lê Hoàng Anh đề nghị Ban soạn thảo tiếp thu theo 4 định hướng: (1) Số hóa toàn diện thủ tục hành chính thuế, giảm tối đa chi phí tuân thủ; (2) Bịt kín lỗ hổng thất thu trong thương mại điện tử và kinh tế số, xác lập nghĩa vụ rõ ràng cho các nền tảng xuyên biên giới; (3) Kết nối, chia sẻ dữ liệu liên thông giữa thuế - ngân hàng - hải quan - thương mại điện tử; (4) Từng bước xây dựng hệ sinh thái thuế số quốc gia, quản lý bằng dữ liệu thời gian thực và trí tuệ nhân tạo.

Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai Lý Tiết Hạnh đóng góp ý kiến về vấn đề phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế. Ảnh: Đoàn ĐBQH tỉnh
Liên quan đến dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Phó Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Gia Lai Lý Tiết Hạnh đóng góp ý kiến về vấn đề phân nhóm người nộp thuế trong quản lý thuế (Điều 3). Cụ thể, đề nghị ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung nguyên tắc bảo đảm tính công bằng, tránh phân biệt đối xử giữa các nhóm người nộp thuế, đồng thời bổ sung quy định cho phép người nộp thuế có quyền giải trình, kiến nghị bản thân được phân nhóm không đúng.
Về nguyên tắc quản lý thuế, tại điểm a khoản 4 Điều 6, đề nghị bổ sung cơ chế để làm rõ nghĩa vụ chứng minh đối với “bản chất kinh tế của hoạt động, giao dịch” là của người nộp thuế hay cơ quan thuế.
Về bảo mật, công khai thông tin người nộp thuế, điểm a khoản 3 Điều 7 dự thảo Luật quy định cơ quan quản lý thuế được công khai thông tin người nộp thuế trong trường hợp “Trốn thuế, chây ỳ không nộp tiền thuế đúng thời hạn; nợ tiền thuế”. Theo ĐB Hạnh, nên phân biệt rành mạch 2 hành vi này.
Cơ quan soạn thảo cũng nên cân nhắc, quy định cụ thể người nộp thuế nợ tiền thuế bao nhiêu kỳ thì bị công khai thông tin về người nộp thuế. Bởi vì, nếu chỉ nợ 1 hoặc 2 kỳ nộp thuế vì lý do khách quan và người nộp thuế không có tình trạng trốn thuế, chây ỳ không nộp tiền thuế thì không thể thực hiện công khai thông tin người nộp thuế được.
Bảo đảm thuế thu nhập cá nhân phù hợp thực tiễn
Với dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi), ĐB Lê Hoàng Anh cho rằng đây là một đạo luật quan trọng, liên quan trực tiếp đến đời sống hàng chục triệu người dân và ảnh hưởng sâu rộng đến cấu trúc công bằng xã hội, phân bổ nguồn lực và ổn định vĩ mô.
Qua nghiên cứu, đại biểu cơ bản thống nhất với định hướng mở rộng cơ sở thu, nâng cao công bằng, nuôi dưỡng nguồn thu bền vững. Tuy nhiên, ĐB Hoàng Anh cho rằng vẫn còn một số vấn đề lớn cần được chỉnh lý, sửa đổi để bảo đảm phù hợp thực tiễn, đồng bộ hệ thống pháp luật, hài hòa với thông lệ quốc tế.
Cụ thể như về căn cứ tính thuế - cần chuyển từ “doanh thu” sang “thu nhập ròng”.
Hiện dự thảo tại Điều 13 và Điều 14 vẫn quy định thuế đối với chứng khoán và bất động sản tính theo tỷ lệ phần trăm trên doanh thu (0,1% và 2%). Cách làm này bất hợp lý, vì người lỗ vẫn phải nộp thuế, người lãi lớn thì nộp ít, tạo méo mó thị trường và khuyến khích khai “hai giá”.
Do đó, đề nghị sửa Điều 13 và Điều 14 theo hướng tính thuế trên phần chênh lệch giữa giá bán và giá mua thực tế (thu nhập ròng); cho phép bù trừ lãi - lỗ trong năm và chuyển lỗ 2-3 năm; áp dụng mức thuế suất theo thời gian nắm giữ: dưới 12 tháng 20%, từ 12 đến dưới 24 tháng 15%, từ 24 tháng đến trên 36 tháng 10%, từ 36 tháng đến 48 tháng 5% và trên 48 tháng là 2%. Bên cạnh đó, bắt buộc đối chiếu dữ liệu giao dịch, giá đất, công chứng và ngân hàng.
Cách tiếp cận này phù hợp thông lệ OECD, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU, giúp thuế phản ánh đúng lợi nhuận thực và hạn chế đầu cơ. Có như vậy chúng ta mới góp phần giải quyết từng bước giá bất động sản, giá quyền sử dụng đất đang vượt quá rất nhiều lần khả năng chi trả của đại đa số người dân, dẫn đến nhiều hệ lụy cho nền kinh tế, có thể dẫn đến ảnh hưởng sâu rộng đến an ninh quốc gia.
Còn ĐB Lý Tiết Hạnh bày tỏ quan tâm đến quy định về các trường hợp miễn thuế, giảm thuế khác (Điều 5).
Theo ĐB Hạnh, việc quy định miễn thuế thu nhập cá nhân trong 5 năm đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của “nhân lực công nghiệp công nghệ số chất lượng cao” tại khoản 2 Điều 5 dự thảo Luật và giảm 50% thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân là nhân lực công nghệ cao là cần thiết nhằm khuyến khích, thu hút nguồn nhân lực trình độ cao phục vụ phát triển lĩnh vực khoa học công nghệ, công nghệ cao, công nghệ số, đổi mới sáng tạo….
Tuy nhiên, đối tượng nộp thuế được áp dụng các quy định này chủ yếu là những người nộp thuế có mức thu nhập cao. Do đó, để đảm bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế hoạt động trong các lĩnh vực khác, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc lại quy định “5 năm” hay “50%” .
Bởi, trong giai đoạn phát triển nhanh, khoa học công nghệ rất nhanh lỗi thời, tính ổn định không cao; việc có quá nhiều ưu đãi cần tính toán kỹ để vừa khuyến khích phát triển, vừa đảm bảo cơ cấu lao động và sự ổn định trong chính sách.
Về dự án Luật Tiết kiệm, chống lãng phí, theo ĐB Đinh Ngọc Quý, vấn đề lớn nhất là tính thực chất trong tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là ở khu vực công. Cái khó nhất ở khu vực công là lượng hóa, là tiết kiệm được bao nhiêu tiền; một số lĩnh vực tính được, nhưng nhiều lĩnh vực không tính được, như xây dựng chính sách, pháp luật.
ĐB Đinh Ngọc Quý đề xuất cần bổ sung và nhấn mạnh vai trò của cán bộ, công chức, đảng viên để lan tỏa văn hóa chống lãng phí. Ảnh: Đoàn ĐBQH tỉnh
ĐB Quý cũng bày tỏ quan tâm đến vấn đề trách nhiệm xây dựng, lan tỏa văn hóa chống lãng phí quy định ở Điều 9. Ở đây dự thảo Luật chỉ đề cập đến các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong khu vực nhà nước, khuyến khích đưa vào hương ước quy ước của cộng đồng khu dân cư, hộ gia đình, cá nhân… ĐB Quý đề xuất cần bổ sung và nhấn mạnh vai trò của cán bộ, công chức, đảng viên để lan tỏa, làm gương.













