Đề xuất giảm mạnh thuế nhập khẩu đối với 3 dòng ôtô
Bộ Tài chính đang đề xuất điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với một số mặt hàng ôtô nhằm đa dạng hóa nguồn cung xe nhập khẩu, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường.

Bộ Tài chính đề xuất giảm thuế nhập khẩu mặt hàng ô tô mã HS 8703.23.63, 8703.23.57, 8703.24.51 xuống còn 32%.
Bộ Tài chính đang đề xuất điều chỉnh mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) đối với một số mặt hàng ôtô nhằm đa dạng hóa nguồn cung xe nhập khẩu, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường và xây dựng hệ thống thuế phù hợp với xu hướng phát triển của ngành công nghiệp ôtô trong nước.
Theo quy định hiện hành, các dòng xe thuộc mã HS 8703.23.63, 8703.23.57 và 8703.24.51 đang chịu mức thuế nhập khẩu MFN tương đối cao.
Đối với mã HS 8703.23.63, đây là dòng xe chở người có khoang chở hành lý chung và ôtô thể thao (trừ các dòng ôtô thể thao loại 4 bánh chủ động), dung tích xi lanh trên 2.000cc nhưng không quá 2.500cc.
Hiện nay, thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%; cam kết trần WTO là 70%. Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) là 0%, không cam kết trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam-Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện (AJCEP).
Thuế suất Hiệp định Ðối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là 31,8%; các Hiệp định thương mại tự do (FTA) khác từ 0 - 78%. Thuế tiêu thụ đặc biệt là 50%, thuế bảo vệ môi trường không thu, thuế giá trị gia tăng là 10%.
Năm 2024, tổng kim ngạch nhập khẩu dòng ôtô này là 40,8 triệu USD. Theo đó, kim ngạch nhập khẩu chịu thuế MFN là 11,8 triệu USD (chiếm 29%) và kim ngạch nhập khẩu theo hiệp định thương mại tự do (FTA) là 29 triệu USD (chiếm 71%). Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%; cam kết trần WTO là 70%.
Mã HS 8703.23.57 áp dụng cho dòng ôtô kiểu sedan có dung tích xi lanh trên 2.000cc nhưng không quá 2.500cc. Thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 64%; cam kết trần WTO là 70%.
Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại ATIGA là 0%, không cam kết trong VJEPA, AJCEP. Thuế suất CPTPP là 31,8%; các FTA khác từ 0 - 78%. Thuế tiêu thụ đặc biệt là 50%, thuế bảo vệ môi trường không thu, thuế giá trị gia tăng là 10%.
Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2024 của mã HS 8703.23.57 là 13,23 triệu USD; trong đó không có kim ngạch nhập khẩu chịu thuế MFN; kim ngạch nhập khẩu theo FTA là 13,23 triệu USD (chiếm 100%).Mã HS 8703.24.51 được áp dụng cho các dòng ôtô khác thuộc loại 4 bánh chủ động.
Hiện nay, thuế suất thuế nhập khẩu MFN là 45%; mức cam kết trần WTO là 47%. Mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt tại ATIGA là 0%, không cam kết trong VJEPA, AJCEP.
Thuế suất CPTPP là 25%; các FTA khác từ 0 đến 59%. Thuế tiêu thụ đặc biệt là 90%, 110%, 130%, 150% tùy theo dung tích xi lanh; thuế bảo vệ môi trường không thu, thuế giá trị gia tăng là 10%.
Với mã này, kim ngạch nhập khẩu chịu thuế MFN là khoảng 8,1 triệu USD (chiếm 11,36%) và kim ngạch nhập khẩu theo FTA là 63,19 triệu USD (chiếm 88,64%).
Theo Bộ Tài chính, thị trường ôtô Việt Nam hiện có quy mô khoảng 510.000 xe/năm.
Trong số đó, sản lượng sản xuất và lắp ráp trong nước đạt 338.000 xe/năm, hơn 173.000 xe còn lại được nhập khẩu, chủ yếu từ các nước ASEAN đang áp dụng mức thuế suất FTA là 0%. So với các quốc gia trong khu vực, thị trường ô tô Việt Nam vẫn còn khá nhỏ.
Bộ Công Thương dự kiến, đến năm 2030, nhu cầu tiêu thụ ôtô tại Việt Nam có thể đạt từ 1 đến 1,1 triệu xe/năm. Như vậy, trong vòng 5 năm tới, ngành ôtô trong nước cần phải đạt mức tăng trưởng gấp đôi so với hiện tại để đáp ứng nhu cầu thị trường.
Hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất ôtô trong nước chủ yếu tập trung vào các dòng xe có dung tích xi lanh thấp (dưới 2.000cc), phù hợp với đa số nhu cầu tiêu dung, còn các dòng xe có dung tích xi lanh cao hơn chủ yếu phải nhập khẩu do trong nước chưa có cơ sở sản xuất phù hợp.
Bộ Tài chính cho biết, kim ngạch nhập khẩu của cả ba dòng ôtô này chủ yếu đến từ các quốc gia có mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt, trong đó Thái Lan hưởng ưu đãi theo Hiệp định ATIGA và Nhật Bản theo Hiệp định CPTPP.
Việc giảm thuế MFN có thể thúc đẩy dịch chuyển thương mại, giúp người dân tiếp cận các dòng xe cao cấp với mức giá hợp lý hơn.
Tuy nhiên, xu hướng tiêu dùng ôtô không chỉ phụ thuộc vào thuế suất mà còn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác như thị hiếu, giá cả, dịch vụ hậu mãi, mức tiêu hao nhiên liệu.
Bên cạnh đó, do ôtô là tài sản có giá trị lớn, người Việt Nam thường có xu hướng lựa chọn các dòng xe phổ biến trên thị trường.
Đồng thời, ngành sản xuất ôtô trong nước hiện vẫn chưa phát triển các dòng xe có dung tích xi lanh lớn, do đó nhu cầu đối với phân khúc này chủ yếu phải dựa vào nguồn nhập khẩu.
Do đó, Bộ Tài chính đề xuất điều chỉnh giảm thuế MFN đối với ba mã HS trên.
Theo đó, mức thuế nhập khẩu đối với các dòng xe thuộc mã HS 8703.23.63 và 8703.23.57 sẽ giảm từ 64% xuống 32%, gần bằng mức thuế suất cam kết theo Hiệp định CPTPP vào năm 2025. Đối với mã HS 8703.24.51, mức thuế nhập khẩu sẽ giảm từ 45% xuống 32% nhằm thống nhất mức thuế suất giữa các dòng xe có cùng phân khúc.
Bộ Tài chính tính toán: Việc giảm thuế nhập khẩu MFN theo phương án này dự kiến sẽ làm giảm thu ngân sách nhà nước khoảng 8,81 triệu USD (tính theo kim ngạch nhập khẩu chịu thuế MFN của năm 2024).
Tuy nhiên, mức giảm này có thể được bù đắp nếu lượng xe nhập khẩu từ các nước MFN tăng lên, thay thế cho xe nhập khẩu từ ASEAN.
Bộ Tài chính hiện đang lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và chuyên gia đối với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi (MFN) của một số mặt hàng tại biểu thuế nhập khẩu ưu đãi theo danh mục mặt hàng chịu thuế ban hành kèm Nghị định 26/2023/NĐ-CP.
Sau khi hoàn thiện sẽ đề xuất điều chỉnh thuế trước khi trình Chính phủ xem xét phê duyệt. Bộ Tài chính dự kiến, Nghị định sửa đổi thuế nhập khẩu MFN sẽ được ban hành trong tháng 3 và có hiệu lực ngay.
Ông Nguyễn Quốc Hưng Cục trưởng Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí (Bộ Tài chính) cho biết, việc điều chỉnh thuế suất MFN lần này tuân thủ các nguyên tắc quan trọng. Trước hết, đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Việc điều chỉnh thuế nhập khẩu sẽ tập trung vào các mặt hàng trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ. Đối với những mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn từ các đối tác quan trọng sẽ có sự rà soát kỹ lưỡng để đảm bảo tính hợp lý.
Theo TTXVN/Vietnam+