Dệt may Việt Nam tăng tốc đa dạng hóa thị trường
Trước những biến động toàn cầu và yêu cầu chuyển đổi xanh, ngành dệt may Việt Nam đang chủ động mở rộng thị trường để giữ vững vị thế xuất khẩu chủ lực.
Áp lực biến động, cơ hội và thách thức đan xen
Sáng 30/5, Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương) tổ chức hội nghị Xúc tiến thương mại với các Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài tháng 5 năm 2025. Tại hội nghị, đại diện các hiệp hội, doanh nghiệp và Thương vụ đã cùng nhau lắng nghe và thảo luận về các vấn đề liên quan đến khó khăn, cơ hội và thách thức của ngành dệt may - da giày trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động.
Chia sẻ tại hội nghị, ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp Hội dệt may Việt Nam cho biết, ngành dệt may Việt Nam có nhiều tín hiệu phục hồi tích cực. Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (VITAS), tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may 5 tháng đầu năm 2025 đạt 17,58 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước.
Ở chiều ngược lại, nhập khẩu đạt 10,63 tỷ USD, tăng 4,7%, giúp toàn ngành xuất siêu 6,95 tỷ USD. Với lực lượng lao động hơn 1,8 triệu người, chủ yếu từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành dệt may tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế Việt Nam.

Ông Trương Văn Cẩm, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp Hội dệt may Việt Nam. Ảnh: N.H
Tuy nhiên, những thách thức chưa từng có trong chuỗi cung ứng toàn cầu, từ dịch bệnh đến xung đột địa chính trị và biến động kinh tế vĩ mô, đang đặt ngành dệt may trước áp lực lớn. Ngoài ra, trong nước, Việt Nam cũng đã cam kết mạnh mẽ tại COP26, hướng tới mục tiêu Net Zero vào năm 2050. Để đạt được điều này, ngành dệt may phải nhanh chóng đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu sạch, chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn, tự chủ nguyên liệu để tận dụng ưu đãi thuế từ các FTA.
Trong bối cảnh đó, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu không chỉ là xu hướng mà trở thành điều kiện sống còn đối với ngành dệt may Việt Nam.
Đổi mới chiến lược, mở rộng thị trường, nâng cao nội lực
Theo ông Trương Văn Cẩm, ngành dệt may Việt Nam đang tận dụng lợi thế từ các FTA thế hệ mới để mở rộng thị trường, đặc biệt là các khu vực có dân số lớn và thu nhập cao như CPTPP (500 triệu dân), EU (500 triệu dân) và RCEP (2,2 tỷ dân). Việc cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường từ các FTA này không chỉ giúp tăng kim ngạch xuất khẩu mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chiến lược phát triển dệt may - da giày đến năm 2030, tầm nhìn 2035, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1643/QĐ-TTg, đặt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu đạt 68-70 tỷ USD vào năm 2030. Bên cạnh đó, chiến lược cũng nhấn mạnh việc tăng tỷ lệ nội địa hóa, nâng thu nhập người lao động và phát triển thương hiệu Việt trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may 5 tháng đầu năm 2025 đạt 17,58 tỷ USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh: MOIT
Tuy nhiên, muốn hiện thực hóa những mục tiêu này, các doanh nghiệp phải thay đổi tư duy, tái cấu trúc sản xuất, đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực và chuyển đổi số. Việc liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp trong ngành, giữa doanh nghiệp nội và FDI, giữa doanh nghiệp và các nhãn hàng quốc tế trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Do đó, VITAS khuyến nghị doanh nghiệp cần đa dạng hóa không chỉ thị trường xuất khẩu mà cả nguồn cung nguyên phụ liệu, khách hàng và danh mục sản phẩm. Đây là cách duy nhất để giảm thiểu rủi ro, tăng sức chống chịu trước biến động quốc tế.
Cần chính sách đồng hành từ Chính phủ và Thương vụ nước ngoài
Để hỗ trợ doanh nghiệp thực thi các giải pháp trên, đại diện Hiệp hội dệt may Việt Nam kiến nghị Bộ Công Thương tiếp tục đàm phán để duy trì mức thuế hợp lý tại thị trường Mỹ, thị trường xuất khẩu dệt may lớn nhất của Việt Nam. Đồng thời, đẩy nhanh tiến độ đàm phán FTA ASEAN - Canada, kiến nghị nới lỏng quy định xuất xứ với Liên minh Kinh tế Á - Âu (EAEU), nhằm giúp doanh nghiệp tận dụng tối đa ưu đãi thuế quan.
Đặc biệt, ngành dệt may đang rất cần những khu công nghiệp chuyên biệt cho dệt nhuộm như định hướng trong chiến lược 1643. Đây sẽ là hạ tầng then chốt để thu hút đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu trong nước, từ đó gia tăng tỷ lệ nội địa hóa, yếu tố then chốt để doanh nghiệp không bị lệ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu.
Cùng với đó, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài cần đóng vai trò “tai mắt” cho ngành. “Các Thương vụ nên thường xuyên cập nhật thông tin về chính sách thuế, các quy định mới, xu hướng tiêu dùng, mức độ chấp nhận sản phẩm bền vững của thị trường sở tại. Với các thị trường có FTA như Mexico, Peru, Chile… hoặc các thị trường tiềm năng như Brazil, Ấn Độ, cần khai thác kỹ thông tin về giá cả, thị hiếu, văn hóa tiêu dùng để hỗ trợ doanh nghiệp thiết kế sản phẩm phù hợp”, ông Cẩm kiến nghị.
Không chỉ vậy, các Thương vụ cũng cần hỗ trợ thông tin về đối thủ cạnh tranh như Bangladesh, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ hay Indonesia từ mức lương, thuế, logistics đến chính sách ưu đãi đầu tư cũng cần được cập nhật để giúp doanh nghiệp Việt Nam điều chỉnh chiến lược cạnh tranh hợp lý. Thông tin về các thị trường tiềm năng để đầu tư sản xuất (có chi phí thấp, lao động dồi dào) cũng là hướng đi mới cần tính đến.
Từ mô hình “gia công đơn thuần”, ngành dệt may Việt Nam đang đứng trước bước ngoặt lớn để trở thành ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, bền vững và thân thiện với môi trường. Để làm được điều đó, không chỉ cần năng lực sản xuất, mà quan trọng hơn là chiến lược dài hạn và sự đồng hành của cả hệ sinh thái Nhà nước - doanh nghiệp - hiệp hội - thị trường.