Di thư của người lính (Bài 3): 'Còn nhiều khó khăn, gian khổ nhưng em hãy tin ở anh, bởi vì anh tin Đảng...'

Đây là những dòng chữ trong bức thư cuối cùng - thư của một liệt sĩ Công an nhân dân đi mãi chưa về trong khắc khoải chờ mong của người thân. Đọc thư liệt sĩ, để thấm thía hơn rằng, tình yêu Tổ quốc từ trong huyết quản khởi nguồn từ yêu thương vô bờ dành cho gia đình.

Bà Nguyễn Thị Tĩnh cùng người con gái nuôi đọc thư của chồng và của bố là liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung.

Bà Nguyễn Thị Tĩnh cùng người con gái nuôi đọc thư của chồng và của bố là liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung.

Căn nhà bà Nguyễn Thị Tĩnh - vợ liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung nằm trong con ngõ nhỏ, ở thôn Thịnh Hòa, (xã Hoằng Thịnh), luôn rộn tiếng nói cười của bà con xóm giềng cùng tiếng nô đùa của các cháu học sinh ở nhà văn hóa đối diện. Cũng bởi vậy mà bao năm qua, dù sống một mình nhưng bà Tĩnh chưa bao giờ cảm thấy vắng vẻ hay hiu quạnh.

Bà Tĩnh chờ chúng tôi tự lúc nào cùng những bức thư của chồng mình - liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung. Có những bức thư đã nhòe mực... nhưng với bà Tĩnh, đó là cả một miền ký ức vẹn nguyên mà bao năm qua bà luôn nâng niu, cất giữ. Đó là nguồn động viên, nguồn sống của bà từ thuở tóc còn xanh.

Đằng đẵng suốt bao nhiêu năm xa cách, vợ chồng chỉ biết tin nhau qua những lá thư từ hậu phương được gửi đi rồi những lá thư từ tiền tuyến được gửi về. Những lá thư, những dòng chữ ấm áp được ông viết gửi về, tôi đều đọc đi đọc lại đến vài ba lần, thậm chí mỗi khi nhớ chồng, mỗi khi chông chênh trước cuộc sống, là tôi lại mang ra đọc...

Đôi mắt hoen đỏ, bà kể: "Khi xưa, tôi ở xã Hoằng Thái, ông Nhung ở xã Hoằng Thịnh. Thời trẻ, tôi làm cán bộ Đoàn xã, còn ông làm y tá trong lực lượng công an vũ trang đơn vị đóng quân đầu tiên ở Hàm Rồng, sau đó chuyển về đồn Tĩnh Gia. Sau thời gian dài tìm hiểu, yêu xa, năm 1964 chúng tôi nên duyên bằng một đám cưới giản dị ở quê nhà. Sau khi cưới, thời gian ở bên nhau của tôi và ông Nhung chỉ được tính từng giờ, từng phút thì ông lại tiếp tục lên đường ra trận. Cũng từ đó, chỉ có tôi và mẹ chồng sống nương tựa vào nhau".

"Khi ấy, do bom đạn chiến tranh, có khi chồng tôi hoạt động ở đồn Tĩnh Gia, có khi lại ra đảo Mê, chính vì vậy những bức thư gửi về quê nhà là vô cùng khó khăn. Có khi thì 1 tuần ông gửi về 1 lá thư, khi thì 10 ngày, khi lại 1 tháng... Đằng đẵng suốt bao nhiêu năm xa cách, vợ chồng chỉ biết tin nhau qua những lá thư từ hậu phương được gửi đi rồi những lá thư từ tiền tuyến được gửi về. Những lá thư, những dòng chữ ấm áp được ông viết gửi về, tôi đều đọc đi đọc lại đến vài ba lần, thậm chí mỗi khi nhớ chồng, mỗi khi chông chênh trước cuộc sống, là tôi lại mang ra đọc và coi đó là động lực để tôi tiếp tục cố gắng để lo chu toàn việc nhà, hoàn thành nhiệm vụ của người Phó Chủ tịch UBND xã Hoằng Thịnh” - bà Tĩnh trải lòng.

Những bức thư do chồng gửi về vẫn được vợ là bà Nguyễn Thị Tĩnh gìn giữ cẩn thận.

Những bức thư do chồng gửi về vẫn được vợ là bà Nguyễn Thị Tĩnh gìn giữ cẩn thận.

Mỗi lần đọc thư chồng gửi về bà Tĩnh lại bật khóc và lần này cũng vậy. Giọng nghẹn ngào bà Tĩnh đọc cho chúng tôi nghe một đoạn trong bức thư chất chứa tình cảm, nỗi niềm mà chồng mình gửi về từ chiến trường xa xôi, cách trở: “Em yêu ơi, thời gian qua anh rất khỏe, tuy học luyện có mệt thật nhưng tinh thần thoải mái, nhận rõ trách nhiệm nên đều vượt qua. Anh biết, còn nhiều khó khăn, gian khổ gấp bội nhưng em hãy tin ở anh, bởi vì anh tin ở Đảng, được Đảng chăm lo nuôi dạy rất tận tình.

Tuy nhiên, anh cũng có những điều riêng tư và tất nhiên anh nghĩ đến gia đình, đến mẹ và em.

Em ạ: Anh nghĩ đến hai mẹ của chúng ta, một người đã sinh ra anh, đã nuôi anh lớn lên bằng bầu sữa nóng và sự chắt chiu của bà, người đã gần trọn một đời vất vả, khó nhọc để tất cả hy vọng vào đứa con trai độc nhất, mong cho nó lớn lên, trưởng thành... Một người thì đã cho anh đứa con gái lớn rất mực yêu thương của bà và cũng yêu thương anh như con đẻ của bà vậy...

Anh nghĩ về em, một người con gái mới bước vào đời đã phải vì anh mà chịu vất vả ràng buộc. Vất vả về thể xác đã đành nhưng về tình cảm cũng phải chịu đựng sự hy sinh rất lớn.

Những bức thư do ông Hoàng Nguyên Nhung gửi về.

Những bức thư do ông Hoàng Nguyên Nhung gửi về.

Mỗi lá thư ông Nhung viết từ chiến trường gửi về hậu phương trong những hoàn cảnh, tâm thế, trạng thái riêng, vậy nhưng bức thư nào cũng là những ngày hành quân chiến đấu, cứu chữa cán bộ, thương binh, và những tâm tư, tình cảm, nỗi nhớ thương da diết người mẹ, người vợ tảo tần và những người thân của mình.

Còn với bà Tĩnh, những lá thư động viên của chồng là niềm vui, niềm an ủi trong những năm tháng xa cách. Đáp lại tình cảm nơi tiền tuyến, bà chia sẻ với ông tình hình gia đình, quê hương, bày tỏ nỗi nhớ khi đôi lứa xa cách, đồng thời nhắc nhở ông phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ, mong ông chiến thắng trở về.

Bà Nguyễn Thị Tĩnh chăm chú đọc thư của chồng.

Bà Nguyễn Thị Tĩnh chăm chú đọc thư của chồng.

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, có lần ông Nhung được nghỉ phép trở về quê nhà thăm mẹ, thăm vợ, và hạnh phúc được nhân lên khi đôi vợ chồng trẻ được làm bố, làm mẹ.

Tâm trạng bồi hồi, bà Nhung nhớ lại ký ức của một thời xa xăm: “Lần tôi báo tin có con, anh mừng lắm, bảo sẽ xin cắt phép để về thăm. Và qua mỗi lá thư về tôi biết anh vẫn còn sống, lại thêm hy vọng vào ngày chiến thắng, anh sẽ về với mẹ con tôi... Vậy nhưng, đứa con trai chưa kịp chào đời, thì khi ấy anh rể tôi đang công tác ở UBND xã Hoằng Thịnh nhận được giấy báo tử của anh Nhung. Vì lo lắng cho số phận của người phụ nữ đang mang bầu, nên anh đã quyết định giấu tôi, mãi sau khi tôi sinh con cứng cáp thì tôi mới biết tin chồng mình đã hy sinh ở mặt trận phía Nam. Vậy là chiến tranh đã chia cắt chúng tôi vĩnh viễn, con thì chưa kịp được ấp ủ hơi ấm của cha, còn cha cũng chưa kịp nhìn mặt đứa con trai bé bỏng của mình".

... người ta chỉ muốn thương yêu, nhưng làm sao chỉ có thương yêu không thôi được. Em yêu ạ, anh rất tự hào về mẹ ta, cũng hiểu rõ điều này và sẵn sàng cho anh đi chiến đấu...

Trích thư Liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung

Nói rồi, bà Tĩnh lật giở lại lá thư cuối cùng bà nhận được từ chồng mình vào năm 1969, trước khi ông hy sinh. Bà nghẹn ngào đọc từng câu, từng chữ: “Tĩnh ạ. Anh không muốn mẹ ta phải sống những ngày cuối đời mình bằng sự hiu quạnh, thấp thỏm lo buồn. Anh không muốn em sống lẻ loi bằng nhớ nhung, chờ đợi. Nhưng em ơi không thể nào khác được, người ta chỉ muốn thương yêu, nhưng làm sao chỉ có thương yêu không thôi được. Em yêu ạ, anh rất tự hào về mẹ ta, cũng hiểu rõ điều này và sẵn sàng cho anh đi chiến đấu .

Em yêu quý! Anh nghĩ về đứa con đầu lòng của chúng ta. Anh mong cho con khỏe, ngoan, chóng lớn. Nó sẽ giống anh và giống em. Con ta sẽ là hình bóng của anh, động viên thường xuyên đối với em, sưởi ấm cái băng giá, lạnh lẽo trong lòng em. Hình bóng của em và con sẽ luôn ở bên anh, cùng anh chia sẻ những khó khăn và những điều vui trong lúc hành quân và trong chiến đấu. Anh đang hình dung con qua nét mặt, dáng đi đứng và tính tình của con. Thật là hạnh phúc em ạ”.

Ngày nhận tin chồng hy sinh, bà Tĩnh lặng người. Và cũng từ đó, người vợ trẻ không còn được nhận những lá thư ám mùi khói đạn luôn kết thúc bằng những từ yêu thương nồng nàn “nhớ mẹ, yêu em và cả đứa con chưa kịp chào đời”. Cũng chẳng còn lá thư nào ký tên Hoàng Nguyên Nhung được gửi từ chiến trường về nữa... Cũng vì nhớ chồng, thương con mà khi ấy bà Tĩnh đang làm Chủ tịch UBND xã Hoằng Thịnh, đã xin chuyển công tác về vị trí Thư ký UBND xã Hoằng Thịnh. Sau đó, bà tiếp tục công tác ở UBND xã Hoằng Thịnh, và năm 1993 về làm Bí thư chi bộ thôn Thịnh Hòa.

Đằng đẵng đi những năm sau đó, mỗi lúc nhớ chồng, chông chênh trong cuộc sống, bà Tĩnh lại lặng lẽ lật từng lá thư chồng gửi về ra đọc, ôm chặt tờ giấy mỏng vào ngực để nước mắt rơi cho vợi đi nỗi nhớ.

Những dòng chữ vì thế cũng nhòe đi!

Và vì chồng nên bà cũng tự nguyện ở vậy nuôi nấng người con trai nên người. Không chỉ vậy, mà bà còn nhận nuôi thêm một người con gái khi mới đầy 3 tuổi cho có người bầu bạn, sẻ chia. Thời gian trôi đi, các con trai, con gái nuôi của bà đều đã trưởng thành, có công ăn việc làm ổn định, các cháu của bà cũng tiếp nối truyền thống của ông mình công tác trong ngành Công an. Dù khó khăn, gian khổ nhưng đến giờ bà Tĩnh cảm thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ của người vợ liệt sĩ, và hoàn thành tâm nguyện của chồng mình trước khi hy sinh.

Bài thơ do bà Nguyễn Thị Tĩnh làm dành tặng chồng mình là liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung được treo trang trọng trong nhà.

Bài thơ do bà Nguyễn Thị Tĩnh làm dành tặng chồng mình là liệt sĩ Hoàng Nguyên Nhung được treo trang trọng trong nhà.

Đến nay, đã hơn nửa thế kỷ đằng đẵng trôi đi, những lá thư hoen màu thời gian ấy vẫn được bà Tĩnh cất giữ cẩn thận. Mỗi dòng chữ chất chứa yêu thương, tin tưởng, gửi gắm từ người chồng đã vực bà Tĩnh vượt qua dông bão, để rồi suốt bao năm qua bà đã thay chồng nuôi con, gánh vác vẹn toàn việc nhà, việc nước. Cũng bởi nỗi khắc khoải ngày đêm ngóng trông chồng mà bà Tĩnh đã tự mình sáng tác bài thơ tặng chồng. Trong thơ có đoạn như nói lên nỗi niềm của người vợ lính:

... Xa anh em vẫn thấy vui

Một tuần hai lá thư thời thăm em!

Là vợ liệt sĩ chẳng còn ngây thơ

Một ngày hai buổi sớm trưa

Bữa cơm để nguội mẹ chờ con dâu...

Nguôi mạch cảm xúc, những bức thư lại được bà Tĩnh cẩn thận, tỉ mỉ cất vào chiếc hộp nhỏ, ánh nhìn xa xăm. Bà nói lúc chia tay: “Giờ tôi chỉ mong tìm được mộ chồng mình để sớm đưa ông trở về với quê hương, được đoàn tụ với gia đình, người thân”.

Những câu chuyện về một thế hệ “ra đi không tiếc cuộc đời mình” mà chúng tôi kể lại, những mong phác họa lại chân dung của những người đã sống, đã yêu, đã hiến dâng tuổi xanh để tạc nên dáng hình đất nước.

Bài tiếp sau là về những lời dặn dò của người anh dành cho các em thơ. Giản dị, bao dung mà thấm đẫm lý tưởng, hoài bão.

Nguyễn Đạt

Bài 4: “Trước khi ra trận, anh tôi hát bài ca Tự nguyện: Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương”...

Nguồn Thanh Hóa: http://baothanhhoa.vn/di-thu-cua-nguoi-linh-bai-3-con-nhieu-kho-khan-gian-kho-nhung-em-hay-tin-o-anh-boi-vi-anh-tin-dang-271882.htm