Điểm mới của Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật từ 1-4
Luật Ban hành Văn bản quy phạm pháp luật 2025 có sự điều chỉnh về hình thức, thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Ngày 1-4 tới đây, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) 2025 sẽ chính thức có hiệu lực thi hành, với nhiều quy định mới.
Luật Ban hành VBQPPL năm 2025 được Quốc hội đã biểu quyết thông qua ngày 19-2, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, gồm 9 Chương, 72 Điều.
Chính phủ ra Nghị quyết để quy định 3 vấn đề
So với Luật Ban hành VBQPPL 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) (gọi tắt là Luật 2015) thì Luật 2025 đã có một số điều chỉnh về hệ thống VBQPPL.
Một là, tái bổ sung hình thức “Nghị quyết của Chính phủ” vào danh mục VBQPPL.
Trước đây, Luật Ban hành VBQPPL 2008 quy định Chính phủ được ban hành VBQPPL dưới 2 hình thức là nghị định và nghị quyết. Với chủ trương đơn giản hóa hình thức VBQPPL, Luật năm 2015 đã bỏ hình thức nghị quyết và chỉ giữ lại hình thức VBQPPL do Chính phủ ban hành là nghị định.
Tuy nhiên, thực tiễn chỉ đạo, điều hành và phản ứng chính sách của Chính phủ trong thời gian qua, đặc biệt trong giai đoạn ứng phó với đại dịch Covid-19 và phục hồi kinh tế sau đại dịch, đã cho thấy nhu cầu cấp thiết về việc nghiên cứu, bổ sung thẩm quyền ban hành một loại văn bản riêng của Chính phủ (bên cạnh nghị định), với quy trình xây dựng và ban hành nhanh chóng, bảo đảm hiệu lực ngay sau khi được ban hành nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.

ThS Nguyễn Nhật Khanh, Trường Đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM.
Bên cạnh đó, pháp luật hiện hành chưa có quy định về thẩm quyền của Chính phủ trong việc ban hành VBQPPL để thực hiện thí điểm trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, dẫn đến những hạn chế trong thực tiễn, làm giảm tính linh hoạt và kịp thời trong công tác chỉ đạo, điều hành, phát triển kinh tế cũng như bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Do đó, Luật Ban hành VBQPPL 2025 đã tái bổ sung hình thức nghị quyết của Chính phủ vào danh mục VBQPPL và quy định cụ thể Chính phủ ban hành nghị quyết để quy định 3 vấn đề:
(1) Giải quyết các vấn đề cấp bách, quan trọng phát sinh từ thực tiễn và để áp dụng trong một thời gian nhất định, phạm vi cụ thể thuộc thẩm quyền của Chính phủ; phân cấp nhiệm vụ, quyền hạn;
(2) Tạm ngưng, điều chỉnh hiệu lực hoặc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ hoặc một phần nghị định của Chính phủ đáp ứng yêu cầu cấp bách về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân;
(3) Thực hiện thí điểm một số chính sách chưa có pháp luật điều chỉnh thuộc thẩm quyền của Chính phủ hoặc khác với nghị định, nghị quyết của Chính phủ (khoản 2 Điều 14 Luật Ban hành VBQPPL 2025).
Tổng kiểm toán Nhà nước ban hành Thông tư
Hai là, đổi tên văn bản quy phạm pháp luật của Tổng kiểm toán nhà nước từ “Quyết định” sang “Thông tư”.
Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước lần đầu tiên được xếp vào hệ thống VBQPPL trong Luật năm 2008 và tiếp tục được kế thừa trong Luật năm 2015, sửa đổi năm 2020. Sau khi kiểm toán nhà nước trở thành cơ quan hiến định khi lần đầu tiên được quy định trong Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 để quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước. Luật năm 2015 sửa đổi năm 2020 đã tiếp tục kế thừa và quy định Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước là VBQPPL. Theo đó, Tổng Kiểm toán nhà nước ban hành quyết định để quy định chuẩn mực kiểm toán nhà nước, quy trình kiểm toán, hồ sơ kiểm toán (Điều 26).
Theo khoản 8 Điều 4 Luật năm 2015 (sửa đổi năm 2020), Quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước được xếp chung với Thông tư của Chánh án TAND Tối cao; thông tư của Viện trưởng VKSND Tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Do đó, để tạo sự đồng bộ về hình thức và thứ bậc pháp lý của hệ thống VBQPPL, Luật 2025 đã thay thế hình thức “quyết định” của Tổng Kiểm toán nhà nước thành “Thông tư”.
Bãi bỏ thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền cấp xã
Theo Luật 2015, chính quyền cấp xã có thẩm quyền ban hành VBQPPL. Cụ thể, HĐND cấp xã ban hành nghị quyết, UBND cấp xã ban hành quyết định. Song thực tiễn cho thấy số lượng VBQPPL do cấp xã ban hành rất khác nhau.
Theo Báo cáo tổng kết thi hành Luật của Bộ Tư pháp, tính từ 1-7-2016 đến 31-12-2023, có 21/63 tỉnh có cấp xã không ban hành nghị quyết; 17/63 tỉnh có cấp xã không ban hành quyết định; một số tỉnh, cấp xã không ban hành VBQPPL nào trong 8 năm thi hành Luật năm 2015 (Bắc Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ…), có một số tỉnh, cấp xã còn ban hành số lượng khá lớn VBQPPL (như Bình Định: 1.899 văn bản, Đồng Nai: 2.838 văn bản, Hà Nội: 4.183 văn bản).
Thực tế triển khai thi hành Luật có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương về số lượng VBQPPL cấp xã xuất phát từ việc địa phương chưa phân biệt được rõ thế nào là văn bản quy phạm pháp luật, thế nào là văn bản hành chính; năng lực, trình độ của cán bộ tư pháp tại cấp xã còn thiếu kiến thức và kỹ năng soạn thảo VBQPPL… dẫn đến tình trạng, một số địa phương còn ban hành số lượng khá lớn VBQPPL của cấp xã.
Do vậy, Luật đã bỏ đi thẩm quyền ban hành VBQPPL của chính quyền cấp xã với mục tiêu nâng cao chất lượng ban hành VBQPPL trong thời gian tới.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
1. Hiến pháp.
2. Bộ luật, luật , nghị quyết của Quốc hội.
3. Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
4. Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.
5. Nghị định, nghị quyết của Chính phủ; nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
6. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
7. Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
8. Thông tư của Chánh án TAND Tối cao; thông tư của Viện trưởng VKSND Tối cao; thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ; thông tư của Tổng Kiểm toán nhà nước.
9. Thông tư liên tịch giữa Chánh án TAND Tối cao, Viện trưởng VKSND Tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ.
10. Nghị quyết của HĐND cấp tỉnh.
11. Quyết định của UBND cấp tỉnh.
12. VBQPPL của chính quyền địa phương ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
13. Nghị quyết của HĐND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương.
14. Quyết định của UBND cấp huyện.