Doanh nghiệp cần 'tấm vé' tiêu chuẩn cao để chinh phục VEFTA
Trải qua hơn 10 năm đàm phán, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EFTA (VEFTA) được kỳ vọng mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt thâm nhập các thị trường thu nhập hàng đầu thế giới, nhưng lợi ích không tự động đến...
Cơ hội mới cho thương mại và đầu tư
Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EFTA (VEFTA) là một hiệp định thế hệ mới, có ý nghĩa chiến lược trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường và hội nhập vào các thị trường thu nhập cao, tiêu chuẩn khắt khe.
Khối EFTA, bao gồm Thụy Sỹ, Na Uy, Iceland và Liechtenstein, tuy có quy mô dân số nhỏ nhưng sở hữu tổng GDP khoảng 1,3 nghìn tỷ EURO, mức sống cao và nhu cầu lớn đối với các sản phẩm chất lượng cao.
Tại hội thảo công bố báo cáo đánh giá tác động của hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EFTA chiều 26/12 tại Hà Nội, PGS, TS Đào Ngọc Tiến - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương cho biết, VEFTA được khởi động đàm phán từ tháng 5/2012 và vòng đàm phán gần đây nhất (vòng đàm phán thứ 18) diễn ra tại Đà Nẵng vào tháng 11/2025 vừa qua.
Tuy thời gian đàm phán hiệp định kéo dài hơn 10 năm nhưng đây là một hiệp định được kỳ vọng sẽ mở ra nhiều cơ hội mới cho thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và các quốc gia EFTA – những nền kinh tế có trình độ phát triển cao, tiêu chuẩn thị trường khắt khe nhưng ổn định và minh bạch.

PGS, TS Đào Ngọc Tiến - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại thương.
Trong bối cảnh đó, việc chuẩn bị từ sớm, cả ở cấp độ chính sách của cơ quan quản lý nhà nước lẫn cấp độ thực thi của doanh nghiệp, có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Vì vậy, trong khuôn khổ Tiểu dự án “Thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam – EFTA thông qua chuỗi hoạt động đào tạo và tư vấn nâng cao năng lực cho doanh nghiệp nhằm tận dụng tối đa cơ hội từ Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam – EFTA”, Trường Đại học Ngoại thương đã phối hợp cùng các chuyên gia triển khai nghiên cứu và xây dựng báo cáo "Đánh giá tác động của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EFTA đối với Việt Nam".
Đánh giá cao báo cáo, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương cho rằng, đây là tài liệu tham khảo quan trọng không chỉ cho cơ quan quản lý nhà nước, người đàm phán trực tiếp mà còn cho doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp đang và sẽ tiếp cận thị trường EFTA.
Chủ trương của Chính phủ hiện nay là đa dạng hóa thị trường. Thay vì tập trung vào một số thị trường truyền thống có nhiều rủi ro, chúng ta cần đa dạng hóa không chỉ thị trường xuất khẩu mà cả thị trường nhập khẩu, đối tác cung ứng. Khối EFTA tuy không lớn về dân số nhưng có thu nhập rất cao và tiềm năng còn rất nhiều dư địa.

Ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương.
Đại diện nhóm chuyên gia nghiên cứu của Tiểu dự án, bà Vũ Thị Phương Mai cho biết, ở cấp độ vĩ mô, VEFTA góp phần mở rộng thị trường xuất khẩu sang EFTA, cải thiện cơ cấu thương mại theo hướng nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng, cũng như cải thiện môi trường đầu tư thông qua các cam kết về minh bạch, bảo hộ đầu tư và sở hữu trí tuệ.
Ở cấp độ ngành, các ngành dệt may, da giày, nông - thủy sản, chế biến thực phẩm và một số dịch vụ được hưởng lợi rõ nét, trong khi một số ngành như phương tiện vận tải, thép, hóa chất, tài chính - ngân hàng và truyền thông có thể chịu áp lực cạnh tranh gia tăng do nhập khẩu tăng.
Lợi ích không tự xuất hiện
Theo bà Mai, VEFTA không chỉ là hiệp định cắt giảm thuế quan mà còn là một khuôn khổ hội nhập tiêu chuẩn cao, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về lao động, môi trường, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và phát triển bền vững. Do đó, lợi ích từ hiệp định không tự động xuất hiện mà phụ thuộc lớn vào năng lực thực thi và mức độ điều chỉnh chính sách của các bên liên quan.
Với Nhà nước và các bộ, ngành, nhóm nghiên cứu cho rằng, trọng tâm cần chuyển mạnh từ ký kết sang thực thi, tiếp tục cải cách thể chế theo hướng minh bạch, ổn định và phù hợp chuẩn mực quốc tế; nâng cao năng lực thực thi cam kết về đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động và môi trường; đồng thời giảm chi phí tuân thủ và tăng khả năng hấp thụ đầu tư chất lượng cao.
"Đối với doanh nghiệp, VEFTA đòi hỏi sự chuyển đổi từ cạnh tranh bằng giá sang cạnh tranh bằng tiêu chuẩn. Doanh nghiệp cần chủ động nâng cấp công nghệ, quản trị, đầu tư vào sản xuất sạch, truy xuất nguồn gốc và xây dựng thương hiệu gắn với các tiêu chí ESG. Các ngành chịu áp lực cạnh tranh cần tái cấu trúc và nâng cao hiệu quả để thích ứng với môi trường cạnh tranh mới", bà Mai khuyến nghị.
Đối với các hiệp hội ngành hàng và tổ chức trung gian, VEFTA đặt ra yêu cầu tăng cường vai trò hỗ trợ kỹ thuật thực chất cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thông qua cung cấp thông tin, đào tạo về quy tắc xuất xứ, tiêu chuẩn SPS/TBT và hỗ trợ xử lý tranh chấp thương mại
Đối với hệ thống đào tạo và nghiên cứu, cần gắn kết chặt chẽ hơn với quá trình thực thi VEFTA thông qua đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời cung cấp các phân tích, đánh giá tác động và khuyến nghị chính sách dựa trên bằng chứng.
“VEFTA là cơ hội lớn để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào các thị trường cao cấp, nhưng cũng là phép thử đối với năng lực cải cách thể chế và nâng cấp chuỗi giá trị. Hiệu quả của VEFTA phụ thuộc vào sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, hiệp hội và các cơ sở đào tạo - nghiên cứu, nhằm biến cam kết hội nhập thành tăng trưởng bền vững trong dài hạn”, bà Mai nhấn mạnh.













