Doanh nghiệp và thử thách chuyển đổi xanh từ tiêu chuẩn môi trường

Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường hợp lý giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, chuyển đổi xanh; ngược lại, thiếu thực tiễn sẽ trở thành rào cản.

Tiêu chuẩn môi trường khi thiếu thực tiễn sẽ thành gánh nặng

Công tác bảo vệ môi trường gắn liền với hệ thống quy chuẩn kỹ thuật (QCVN), tiêu chuẩn kỹ thuật (TCVN) và định mức kinh tế – kỹ thuật, giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Ở góc độ Nhà nước, việc ban hành chính sách và quy định giúp kiểm soát ô nhiễm, bảo đảm phát triển bền vững. Nhưng ở góc độ doanh nghiệp, đó lại là yếu tố trực tiếp tác động đến chi phí tuân thủ, khả năng cạnh tranh và định hướng đầu tư dài hạn.

Một số quy chuẩn được ban hành chưa thật sự cần thiết, thậm chí tạo gánh nặng. Trường hợp QCVN 76:2023 về xử lý chất làm lạnh HFC là ví dụ điển hình. Ảnh minh họa

Một số quy chuẩn được ban hành chưa thật sự cần thiết, thậm chí tạo gánh nặng. Trường hợp QCVN 76:2023 về xử lý chất làm lạnh HFC là ví dụ điển hình. Ảnh minh họa

Theo ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, thách thức lớn nhất hiện nay là tìm được điểm cân bằng, vừa bảo vệ môi trường, vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thu hút đầu tư và tạo việc làm vì nếu nghiêng về một phía, hệ quả khó tránh.

"Thực tế cho thấy, chỉ cần siết chặt quá mức một số quy định kỹ thuật, như trong lĩnh vực phòng cháy, chữa cháy thời gian qua, đã ảnh hưởng rõ rệt đến tiến độ xây dựng, chi phí đầu tư và hoạt động của doanh nghiệp", ông Đậu Anh Tuấn nói.

Có thể thấy, hệ thống quy chuẩn môi trường, tiêu chuẩn môi trường và định mức kinh tế – kỹ thuật vừa tạo nền tảng tích cực cho công tác bảo vệ môi trường, vừa bộc lộ những bất cập cần sớm tháo gỡ để đồng hành cùng sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp. Từ thực tiễn triển khai, có thể nhận diện 7 nhóm khó khăn lớn trong việc áp dụng các hệ thống này.

Thứ nhất, một số lĩnh vực mới chưa có quy chuẩn, khiến doanh nghiệp lúng túng khi triển khai. Điển hình như nhà máy đốt rác phát điện hiện chưa có hướng dẫn xử lý tro, xỉ sau vận hành; hay quy trình ủ chất thải thực phẩm làm phân bón hữu cơ cũng thiếu quy chuẩn kỹ thuật, dù Luật Bảo vệ môi trường 2020 đã đặt ra yêu cầu. Sự thiếu hụt này gây trở ngại cho những doanh nghiệp làm ăn bài bản, muốn đầu tư dài hạn.

Thứ hai, một số quy chuẩn được ban hành chưa thật sự cần thiết, thậm chí tạo gánh nặng. Trường hợp QCVN 76:2023 về xử lý chất làm lạnh HFC là ví dụ điển hình. Dù Việt Nam đã có hạn ngạch nhập khẩu HFC từ năm 2005 để kiểm soát mục tiêu này, việc ban hành thêm quy chuẩn kỹ thuật lại khiến chi phí tuân thủ tăng 15–20%, trong khi nhân lực có chứng chỉ chuyên môn còn thiếu. Điều này gây áp lực lớn cho ngành điện lạnh, ảnh hưởng đến tiến độ cung ứng dịch vụ, nhất là mùa cao điểm ở đô thị. Có thể nói đây là sự “chồng lấn” trong quản lý, làm gia tăng khó khăn cho doanh nghiệp.

Thứ ba, một số chỉ tiêu kỹ thuật còn quá nghiêm ngặt, thiếu phù hợp với điều kiện thực tế. Điều này làm giảm tính khả thi của chính sách, khiến doanh nghiệp khó đạt yêu cầu, ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư.

Thứ tư, yêu cầu công nghệ quá cao, chưa phù hợp với điều kiện một nước đang phát triển. Chẳng hạn, Nghị quyết 28/2023 của HĐND TP. Hồ Chí Minh yêu cầu nhà máy đốt rác phát điện phải thu hồi 320 kWh/1.000 tấn rác, trong khi rác Việt Nam chưa phân loại, độ ẩm tới 75%, khiến tiêu chí này thiếu thực tế.

Thứ năm, lộ trình chuyển tiếp quá ngắn khi ban hành quy chuẩn, khiến doanh nghiệp không kịp thích ứng, đặc biệt trong đầu tư đổi mới công nghệ đòi hỏi chi phí lớn và thời gian dài.

Thứ sáu, quy định về suất vốn đầu tư chưa đầy đủ, như trường hợp Quyết định 510/2023 chỉ áp dụng cho dự án xử lý rác công nghiệp dưới 800 tấn/ngày, trong khi dự án quy mô lớn hơn lại chưa có cơ sở pháp lý lập dự toán.

Thứ bảy, định mức dịch vụ môi trường chưa sát thực tế, khi giá dịch vụ thoát nước chỉ tính theo mét khối nước thải, bỏ sót nhiều chi phí phát sinh như vận hành, bảo trì, quan trắc, bảo hộ lao động... dẫn đến khó khăn trong cân đối tài chính của doanh nghiệp.

Hoàn thiện quy chuẩn môi trường để hài hòa phát triển và bảo vệ

Những bất cập trên cho thấy sự cần thiết phải xây dựng hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn và định mức kinh tế – kỹ thuật vừa chặt chẽ, vừa phù hợp thực tiễn, đồng thời có sự tham vấn rộng rãi từ doanh nghiệp để đảm bảo tính khả thi, tránh gây áp lực không đáng có cho sản xuất – kinh doanh.

Một hệ thống đầy đủ, hợp lý, minh bạch và khả thi sẽ giảm chi phí tuân thủ, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi xanh.

Một hệ thống đầy đủ, hợp lý, minh bạch và khả thi sẽ giảm chi phí tuân thủ, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi xanh.

Trên cơ sở những khó khăn thực tiễn, nhằm tháo gỡ vướng mắc, bảo đảm hài hòa giữa mục tiêu bảo vệ môi trường và tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định sản xuất, đầu tư, phát triển, ông Đậu Anh Tuấn đưa ra 5 đề xuất.

Thứ nhất, nhanh chóng bổ sung các QCVN và TCVN cho những lĩnh vực mới, ưu tiên quy chuẩn liên quan đến giảm phát thải khí nhà kính, kinh tế tuần hoàn, tín chỉ carbon, thị trường carbon và hướng dẫn kỹ thuật về phân loại, tái chế chất thải. Đây là những lĩnh vực cấp thiết, hiện còn thiếu hành lang pháp lý rõ ràng.

Thứ hai, chỉ ban hành quy chuẩn khi thực sự cần thiết. Nếu đã có công cụ quản lý hữu hiệu, như hạn ngạch nhập khẩu trong trường hợp HFC, thì không nên áp dụng đồng thời thêm quy chuẩn kỹ thuật. Tránh tình trạng chồng chéo, vừa không hiệu quả, vừa làm tăng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp.

Thứ ba, mở rộng và thực chất hóa quy trình tham vấn doanh nghiệp trong quá trình xây dựng quy chuẩn. Doanh nghiệp cần được tham gia thực sự, phản ánh kịp thời từ thực tiễn sản xuất – kinh doanh, giúp chính sách bám sát thực tế hơn.

Thứ tư, bảo đảm chỉ tiêu kỹ thuật hợp lý, khả thi, chỉ tập trung vào những tiêu chí thiết yếu cho sức khỏe cộng đồng và môi trường. Không nên lồng ghép mục tiêu kinh tế (như nâng hạng sản phẩm) vào quy chuẩn bắt buộc, vì điều này làm giảm tính linh hoạt của thị trường và tăng gánh nặng chi phí. Ví dụ, với thép không gỉ, nếu áp dụng một mức tiêu chuẩn kỹ thuật quá cao cho mọi phân khúc sẽ đi ngược quy luật thị trường, gây khó cho doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do đó, cần cân nhắc kỹ mức độ yêu cầu, đồng thời đơn giản hóa thủ tục kiểm nghiệm, chấp nhận kết quả tương đương để giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp.

Thứ năm, hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế – kỹ thuật và cơ chế giá dịch vụ môi trường. Suất đầu tư, mức giá phải phản ánh đúng chi phí vận hành, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư, nâng cấp công nghệ. Hệ thống đơn giá cần được cập nhật định kỳ 3–5 năm một lần, tránh tình trạng lạc hậu hoặc chênh lệch quá xa so với thực tế.

Việc hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn và định mức kỹ thuật môi trường là yêu cầu cấp thiết. Một hệ thống đầy đủ, hợp lý, minh bạch và khả thi sẽ giảm chi phí tuân thủ, nâng cao năng lực cạnh tranh, khuyến khích doanh nghiệp chuyển đổi xanh. Ngược lại, nếu quy chuẩn thiếu cân nhắc, quá cao hoặc chưa tham vấn đầy đủ, sẽ trở thành gánh nặng, ảnh hưởng đến cả hiệu quả quản lý nhà nước lẫn hoạt động sản xuất – kinh doanh.

Do đó, hệ thống này cần tiếp tục được hoàn thiện theo hướng khoa học, thực tiễn, minh bạch, ổn định, khả thi, cùng với sự tham gia đầy đủ của cộng đồng doanh nghiệp. Đây chính là nền tảng quan trọng để vừa thúc đẩy kinh tế bền vững, vừa bảo vệ môi trường hiệu quả.

Tính đến năm 2025, có 638 tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) về môi trường, trong đó giai đoạn 2020 - 2025 đã công bố mới 151 TCVN. Về quy chuẩn, các bộ, ngành đã ban hành tổng cộng 804 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) còn hiệu lực tính đến hết năm 2024.

Nguyễn Hạnh

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/doanh-nghiep-va-thu-thach-chuyen-doi-xanh-tu-tieu-chuan-moi-truong-418905.html