Độc lập phải gắn liền với tự do - giá trị thời đại của Bản Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945 (*)

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 10 lần nhắc đến 'tự do', 6 lần nhắc đến 'độc lập'. Trong 10 lần nhắc đến 'tự do' có 5 lần nói về quyền tự do/tự do cá nhân, 4 lần đề cập tự do quốc gia - dân tộc. Cả 6 lần 'độc lập' được Người nhắc đến là độc lập cho quốc gia - dân tộc.

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: TXVN

Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: TXVN

1. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời, trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước toàn thể nhân dân Việt Nam và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 khẳng định những giá trị to lớn về các quyền của con người và quyền của các dân tộc, bao gồm quyền bình đẳng, quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đặc biệt, bản Tuyên ngôn khẳng định những giá trị mang tính thời đại đối với tất cả các dân tộc trên thế giới, đó là tự do và độc lập: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”; “Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Tinh thần độc lập gắn với tự do, trong đó tự do là tự do cho quốc gia - dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chỉ rõ trong nhiều thời điểm khác nhau sau đó. Trước khi phái đoàn Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Pháp đàm phán về Hiệp định sơ bộ vào tháng 4-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dặn dò đoàn về các điểm cốt yếu, trong đó có nội dung về tự do, đó là sự thống nhất hoàn chỉnh về lãnh thổ; tự do liên hiệp với Pháp nhưng Việt Nam phải có ngoại giao độc lập với các nước lớn và các nước láng giềng; Pháp phải giới thiệu Việt Nam vào Liên hợp quốc...

Trong Chỉ thị ngày 22-5-1947 được ban hành sau cuộc gặp giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và Paul Mus, đặc phái viên của Chính phủ Pháp tại Đông Dương, người được Thượng sứ (Cao ủy Pháp ở Đông Dương) Émile Bollaert giao chuyển thông điệp của ông ta tới Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 11-5-1947, Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Pháp muốn giải quyết vấn đề Việt Nam thì chỉ có một cách là thẳng thắn mở cuộc đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh và công nhận Việt Nam thống nhất và độc lập thực sự trong khối Liên hiệp Pháp”. Tuy nhiên, vì “Pháp định nhận Việt Nam độc lập và thống nhất nhưng không cho Việt Nam có quyền ngoại giao với các nước và phòng thủ với nước mình (hai quyền ấy dành riêng cho Pháp); đồng thời quân Pháp tha hồ đóng trên đất Việt Nam (bất cứ đóng ở đâu và đóng đến bao giờ), nghĩa là một thứ “độc lập thống nhất” có danh không có thực”. Cho nên, “Tự do không xin mà được. Tự do phải chiến đấu mà giành lấy".

Tiếp đó, trong Chỉ thị ngày 15-9-1947 về “Émile Bollaert nói gì? Ta phải làm gì?”, Trung ương Đảng đã chỉ rõ âm mưu của Pháp qua thông điệp của Cao ủy Émile Bollaert, đó là: Công việc phòng thủ của Việt Nam là việc của Pháp, dân tộc Việt Nam không có quyền tự vệ, không có quyền tự mình chống lại ngoại xâm, cả khối Liên hiệp Pháp chỉ có một chính sách ngoại giao do nước Pháp đảm nhiệm. Tự do mà Émile Bollaert nói đến là “tự do dân chủ (tự do hương thôn) (tự do cá nhân)”. Tuy nhiên, lập trường của Trung ương Đảng về một nước Việt Nam độc lập phải là: “a) Có Chính phủ riêng, Quốc hội riêng, Hiến pháp riêng, do dân Việt Nam phổ thông đầu phiếu lập ra. b) Có quân đội riêng (cả quân đội chính quy và cảnh binh, công an riêng). c) Có ngoại giao ở nước ngoài (cả đại sứ và lãnh sự). d) Có tiền tệ riêng và thuế quan riêng. e) Ba kỳ đặt dưới quyền một Chính phủ Trung ương (tuy mỗi kỳ có thể tự cử lấy cơ quan hành chánh của mình bằng lối dân chủ) ba kỳ thống nhất là một lẽ dĩ nhiên, không cần phải trưng cầu dân ý”. Đồng thời, Trung ương Đảng cũng khẳng định rõ: “Muốn tự do, độc lập, phải kháng chiến, kiên quyết kháng chiến”.

2. Trong Tuyên ngôn Độc lập 2-9-1945, sau khi vạch rõ tội ác của thực dân Pháp đối với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.

Cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp của dân tộc Việt Nam buộc phải diễn ra bởi “Pháp chưa bao giờ trao quyền tự chủ đáng kể cho các thuộc địa Đông Nam Á cho đến khi buộc phải làm như vậy...”. Đó là lý do trong Lời kêu gọi gửi đồng bào toàn quốc, nhân dân Pháp và nhân sĩ toàn thế giới vào tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi chỉ rõ âm mưu thực dân Pháp muốn cướp Việt Nam một lần nữa đã chỉ rõ: “Nay Việt Nam ta chỉ có hai con đường: hoặc bó tay chịu mất nước, cúi đầu làm nô lệ cho thực dân Pháp, hoặc kiên quyết phấn đấu để giữ quyền độc lập và tự do… Dân Việt Nam quyết không chịu mất nước, quyết không chịu làm nô lệ. Dù phải hy sinh, đau khổ đến mấy, dân Việt Nam cũng quyết giữ lấy quyền độc lập, tự do”. Nếu so sánh với cách thức mà Pháp duy trì lợi ích ở các nước trước đây là thuộc địa ở châu Phi, chúng ta có thể thấy rõ hơn tầm nhìn mang tính thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập gắn liền với tự do hoàn toàn cho dân tộc Việt Nam.

Sau khi thất bại ở chiến trường Đông Dương, thực dân Pháp đã có sự điều chỉnh lớn trong chính sách cai trị thuộc địa ở châu Phi với “mong muốn ổn định những gì còn lại của đế chế tự do mà họ muốn có ở châu Phi”. Ngày 26-6-1956, Nghị viện Pháp thông qua Luật khung (Loi-Cadre). Theo đó, tất cả các thuộc địa cũ sẽ trở thành các xứ bảo hộ. Các lĩnh vực quốc phòng, ngoại giao và tài chính (Services d’État) sẽ vẫn nằm trong tay Pháp, trong đó Quốc hội vẫn là trung tâm chủ quyền quan trọng, các lãnh thổ hải ngoại sẽ tiếp tục cử đại diện đến Paris.

Sau cuộc trưng cầu dân ý về Hiến pháp năm 1958, vào tháng 8-1960, Dahomey, Niger, Haute-Volta, Côte d'Ivoire, Chad, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo và Gabon đều tuyên bố độc lập. Mỗi nước sau đó đàm phán các thỏa thuận liên kết riêng với Pháp. Tuy nhiên, “độc lập hoàn toàn” hay “độc lập về mặt pháp lý không làm cản trở ảnh hưởng đáng kể của Pháp đối với các thuộc địa cũ ở châu Phi”.

Thông qua các mối quan hệ này, Pháp vẫn duy trì nhiều lợi ích kinh tế, chính trị và văn hóa ở châu Phi, được gọi là chủ nghĩa thực dân mới của Pháp ở châu Phi (Françafrique), bắt đầu với nền độc lập của châu Phi vào năm 1960 và kéo dài đến những năm 1990. Thậm chí, có những nghiên cứu chỉ ra rằng, chủ nghĩa thực dân mới của Pháp ở khu vực châu Phi vẫn còn tồn tại đến những năm gần đây. Nói cách khác, hơn 60 năm sau "Năm châu Phi", hầu hết các nước châu Phi nói tiếng Pháp vẫn tiếp tục bị ràng buộc trong một tập hợp các hiệp hội rất phù hợp với mô tả của Kwame Nkrumah trong cuốn sách của ông về “Chủ nghĩa thực dân mới: giai đoạn cuối của chủ nghĩa đế quốc”, nơi các quốc gia hậu thực dân có được nền độc lập trên danh nghĩa nhưng trên thực tế bị ràng buộc bởi sự chỉ đạo từ bên ngoài.

Cụ thể, về mặt tài chính, năm 1945, Pháp tạo ra đồng franc CFA, được neo giá vào đồng franc Pháp và sau đó là đồng Euro. Đồng tiền này được sử dụng tại 14 quốc gia châu Phi, bao gồm 6 quốc gia thành viên từ Trung Phi, hoạt động dưới sự quản lý của Ngân hàng các quốc gia Trung Phi (BEAC) và 8 quốc gia thành viên từ Tây Phi dưới sự quản lý của Ngân hàng Trung ương các quốc gia Tây Phi (BCEAO). Theo thỏa thuận, các quốc gia châu Phi phải gửi một nửa dự trữ ngoại hối của họ vào Kho bạc Pháp và 20% là khoản nợ tài chính. Các nước này chỉ được giữ lại 30% dự trữ ngoại hối. Để kiểm soát đồng franc CFA, Pháp bổ nhiệm một viên chức có quyền phủ quyết trực tiếp vào Hội đồng Quản trị Ngân hàng Trung ương tại BEAC hoặc BCEAO.

Tuy nhiên, BCEAO không có quyền phủ quyết, vị thế chiến lược tài chính, hay bất kỳ điều gì khác trong Ngân hàng Pháp để bảo vệ GDP trị giá 99.095,3 tỷ franc CFA của họ. Trước sự phản ứng của nhiều nước châu Phi, tháng 5-2020, Hội đồng Bộ trưởng Pháp thông qua dự luật chính thức chấm dứt 75 năm đồng CFA Tây Phi.

Độc lập phải gắn liền với tự do. Tự do không chỉ là tự do cá nhân mà còn phải là tự do cho quốc gia, dân tộc. Tư tưởng đó được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945. Tuy nhiên, phải mãi tới Nghị quyết 1514 (XV) ngày 14-12-1960 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về Tuyên bố về trao độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa, tự do cho quốc gia, dân tộc mới thực sự trở thành yếu tố có vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế bên cạnh quyền bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.

Kể từ đó, “tự do” là yếu tố song hành cùng “độc lập” trong các nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc về độc lập, chủ quyền của các dân tộc. Tư tưởng độc lập gắn liền với tự do mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 có ý nghĩa thời đại sâu sắc khi chúng ta phân tích sâu hơn hệ lụy mà các quốc gia Tây Phi giành được “độc lập hoàn toàn” mà thiếu đi yếu tố “tự do” cho quốc gia, dân tộc.

----------

(*) Trích tham luận của PGS.TS Võ Xuân Vinh, Viện trưởng Viện Sử học (Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam) tại Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề "Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9: Giá trị thời đại và sức sống trường tồn".

PGS.TS Võ Xuân Vinh

Nguồn Hà Nội Mới: https://hanoimoi.vn/doc-lap-phai-gan-lien-voi-tu-do-gia-tri-thoi-dai-cua-ban-tuyen-ngon-doc-lap-2-9-1945-713840.html